Skip to main content
Social Sci LibreTexts

6.3: Cảm xúc trẻ sơ sinh

  • Page ID
    246006
  • \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\) \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    ( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\) \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\) \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\) \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\)

    \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\)

    \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\)

    \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\) \( \newcommand{\AA}{\unicode[.8,0]{x212B}}\)

    \( \newcommand{\vectorA}[1]{\vec{#1}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorAt}[1]{\vec{\text{#1}}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorB}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vectorC}[1]{\textbf{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorD}[1]{\overrightarrow{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorDt}[1]{\overrightarrow{\text{#1}}} \)

    \( \newcommand{\vectE}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash{\mathbf {#1}}}} \)

    \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \(\newcommand{\avec}{\mathbf a}\) \(\newcommand{\bvec}{\mathbf b}\) \(\newcommand{\cvec}{\mathbf c}\) \(\newcommand{\dvec}{\mathbf d}\) \(\newcommand{\dtil}{\widetilde{\mathbf d}}\) \(\newcommand{\evec}{\mathbf e}\) \(\newcommand{\fvec}{\mathbf f}\) \(\newcommand{\nvec}{\mathbf n}\) \(\newcommand{\pvec}{\mathbf p}\) \(\newcommand{\qvec}{\mathbf q}\) \(\newcommand{\svec}{\mathbf s}\) \(\newcommand{\tvec}{\mathbf t}\) \(\newcommand{\uvec}{\mathbf u}\) \(\newcommand{\vvec}{\mathbf v}\) \(\newcommand{\wvec}{\mathbf w}\) \(\newcommand{\xvec}{\mathbf x}\) \(\newcommand{\yvec}{\mathbf y}\) \(\newcommand{\zvec}{\mathbf z}\) \(\newcommand{\rvec}{\mathbf r}\) \(\newcommand{\mvec}{\mathbf m}\) \(\newcommand{\zerovec}{\mathbf 0}\) \(\newcommand{\onevec}{\mathbf 1}\) \(\newcommand{\real}{\mathbb R}\) \(\newcommand{\twovec}[2]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\ctwovec}[2]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\threevec}[3]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cthreevec}[3]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fourvec}[4]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfourvec}[4]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fivevec}[5]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfivevec}[5]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\mattwo}[4]{\left[\begin{array}{rr}#1 \amp #2 \\ #3 \amp #4 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\laspan}[1]{\text{Span}\{#1\}}\) \(\newcommand{\bcal}{\cal B}\) \(\newcommand{\ccal}{\cal C}\) \(\newcommand{\scal}{\cal S}\) \(\newcommand{\wcal}{\cal W}\) \(\newcommand{\ecal}{\cal E}\) \(\newcommand{\coords}[2]{\left\{#1\right\}_{#2}}\) \(\newcommand{\gray}[1]{\color{gray}{#1}}\) \(\newcommand{\lgray}[1]{\color{lightgray}{#1}}\) \(\newcommand{\rank}{\operatorname{rank}}\) \(\newcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\col}{\text{Col}}\) \(\renewcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\nul}{\text{Nul}}\) \(\newcommand{\var}{\text{Var}}\) \(\newcommand{\corr}{\text{corr}}\) \(\newcommand{\len}[1]{\left|#1\right|}\) \(\newcommand{\bbar}{\overline{\bvec}}\) \(\newcommand{\bhat}{\widehat{\bvec}}\) \(\newcommand{\bperp}{\bvec^\perp}\) \(\newcommand{\xhat}{\widehat{\xvec}}\) \(\newcommand{\vhat}{\widehat{\vvec}}\) \(\newcommand{\uhat}{\widehat{\uvec}}\) \(\newcommand{\what}{\widehat{\wvec}}\) \(\newcommand{\Sighat}{\widehat{\Sigma}}\) \(\newcommand{\lt}{<}\) \(\newcommand{\gt}{>}\) \(\newcommand{\amp}{&}\) \(\definecolor{fillinmathshade}{gray}{0.9}\)

    Khi sinh ra, trẻ sơ sinh thể hiện hai phản ứng cảm xúc: thu hút và rút lui. Họ thể hiện sự hấp dẫn đối với những tình huống dễ chịu mang lại sự thoải mái, kích thích và khoái cảm, và họ rút lui khỏi sự kích thích khó chịu như hương vị đắng hoặc khó chịu về thể chất. Vào khoảng hai tháng, trẻ sơ sinh thể hiện sự tham gia xã hội dưới hình thức mỉm cười xã hội khi chúng đáp lại bằng nụ cười với những người thu hút sự chú ý tích cực của chúng (Lavelli & amp Fogel, 2005).

    Nụ cười xã hội trở nên ổn định và có tổ chức hơn khi trẻ sơ sinh học cách sử dụng nụ cười của mình để thu hút cha mẹ tham gia vào các tương tác. Niềm vui được thể hiện bằng tiếng cười lúc 3 đến 5 tháng tuổi, và sự không hài lòng trở nên cụ thể hơn như sợ hãi, buồn bã hoặc tức giận trong độ tuổi từ 6 đến 8 tháng.

    Tức giận thường là phản ứng khi bị ngăn cản đạt được mục tiêu, chẳng hạn như một món đồ chơi bị loại bỏ (Braungart-Rieker, Hill-Soderlund, & amp Karrass, 2010). Ngược lại, nỗi buồn thường là phản ứng khi trẻ sơ sinh bị thiếu người chăm sóc (Papousek, 2007). Sợ hãi thường liên quan đến sự hiện diện của một người lạ, được gọi là sự cảnh giác của người lạ, hoặc sự ra đi của những người quan trọng khác được gọi là lo lắng chia ly. Cả hai đều xuất hiện vào khoảng từ 6 đến 15 tháng sau khi có được tính lâu dài của vật thể. Hơn nữa, có một số dấu hiệu cho thấy trẻ sơ sinh có thể bị ghen tuông khi mới 6 tháng tuổi (Hart & amp Carrington, 2002).

    clipboard_e95f82387f5040af80d0f6d83af5f9ef5.png
    Hình\(\PageIndex{1}\): Một đứa trẻ sơ sinh biểu hiện trên khuôn mặt tức giận. (Hình ảnh của Brytny.com trên Unsplash)

    Cảm xúc thường được chia thành hai loại chung: Cảm xúc cơ bản (cảm xúc chính), chẳng hạn như quan tâm, hạnh phúc, tức giận, sợ hãi, ngạc nhiên, buồn bã và ghê tởm, xuất hiện đầu tiên, và cảm xúc tự ý thức (cảm xúc thứ cấp), chẳng hạn như ghen tị, kiêu hãnh, xấu hổ, tội lỗi, nghi ngờ và bối rối. Không giống như cảm xúc chính, cảm xúc thứ cấp xuất hiện khi trẻ bắt đầu phát triển khái niệm về bản thân và yêu cầu hướng dẫn xã hội về thời điểm cảm nhận những cảm xúc như vậy. Các tình huống trong đó trẻ học những cảm xúc tự ý thức khác nhau giữa các nền văn hóa. Các nền văn hóa cá nhân dạy chúng ta cảm thấy tự hào về thành tích cá nhân, trong khi ở các nền văn hóa tập thể hơn, trẻ em được dạy không được chú ý đến bản thân, trừ khi bạn muốn cảm thấy xấu hổ khi làm như vậy (Akimoto & amp Sanbinmatsu, 1999).

    clipboard_e683e4cf12b161b1486fe0aa77b550d89.png
    Hình\(\PageIndex{2}\): Một trẻ sơ sinh biểu hiện trên khuôn mặt buồn bã (Hình ảnh của acheron0 được cấp phép theo CCBY 2.0)

    Biểu hiện cảm xúc trên khuôn mặt là cơ quan điều chỉnh quan trọng của tương tác xã hội. Trong các tài liệu về phát triển, khái niệm này đã được nghiên cứu theo khái niệm tham chiếu xã hội; nghĩa là quá trình trẻ sơ sinh tìm kiếm thông tin từ những người khác để làm rõ một tình huống và sau đó sử dụng thông tin đó để hành động (Klinnert, Campos, & Sorce, 1983). Cho đến nay, minh chứng mạnh mẽ nhất về tham khảo xã hội đến từ công việc trên vách đá thị giác. Trong nghiên cứu đầu tiên để điều tra khái niệm này, Campos và các đồng nghiệp (Sorce, Emde, Campos, & amp Klinnert, 1985) đã đặt các bà mẹ ở phía xa của “vách đá” so với trẻ sơ sinh. Đầu tiên, các bà mẹ mỉm cười với trẻ sơ sinh và đặt một món đồ chơi lên trên kính an toàn để thu hút chúng; trẻ sơ sinh luôn bắt đầu bò về phía mẹ của chúng. Tuy nhiên, khi trẻ sơ sinh ở giữa bàn, người mẹ sau đó đặt ra một biểu hiện của sự sợ hãi, buồn bã, tức giận, thích thú hoặc vui mừng. Kết quả rõ ràng là khác nhau đối với các khuôn mặt khác nhau; không có trẻ sơ sinh nào vượt qua bàn khi người mẹ tỏ ra sợ hãi; chỉ 6% làm như vậy khi người mẹ tỏ ra tức giận, 33% vượt qua khi người mẹ đặt ra nỗi buồn và khoảng 75% trẻ sơ sinh vượt qua khi người mẹ đặt niềm vui hoặc hứng thú.

    Các nghiên cứu khác cung cấp hỗ trợ tương tự cho các biểu hiện trên khuôn mặt như là cơ quan điều chỉnh tương tác xã hội. Các nhà nghiên cứu đặt ra những biểu hiện trung tính, tức giận hoặc ghê tởm trên khuôn mặt đối với trẻ sơ sinh khi chúng di chuyển về phía một vật thể và đo mức độ ức chế mà trẻ thể hiện khi chạm vào đồ vật đó (Bradshaw, 1986). Kết quả cho trẻ 10 và 15 tháng tuổi là như nhau: Sự tức giận tạo ra sự ức chế lớn nhất, tiếp theo là sự ghê tởm, ít trung tính nhất. Nghiên cứu này sau đó được nhân rộng bằng cách sử dụng biểu hiện vui mừng và ghê tởm, thay đổi phương pháp để trẻ sơ sinh không được phép chạm vào đồ chơi (so với vật gây mất tập trung) cho đến một giờ sau khi tiếp xúc với biểu hiện (Hertenstein & amp Campos, 2004). Khi được 14 tháng tuổi, nhiều trẻ sơ sinh chạm vào đồ chơi hơn khi chúng nhìn thấy những biểu cảm vui vẻ, nhưng ít chạm vào đồ chơi hơn khi trẻ cảm thấy ghê tởm.

    Một sự thay đổi cảm xúc cuối cùng là trong sự tự điều chỉnh. Tự điều chỉnh cảm xúc đề cập đến các chiến lược chúng ta sử dụng để kiểm soát trạng thái cảm xúc của mình để chúng ta có thể đạt được mục tiêu (Thompson & amp Goodvin, 2007). Điều này đòi hỏi phải nỗ lực kiểm soát cảm xúc và ban đầu cần sự hỗ trợ từ những người chăm sóc (Rothbart, Posner, & amp Kieras, 2006). Trẻ nhỏ có khả năng điều chỉnh trạng thái cảm xúc rất hạn chế và phụ thuộc vào người chăm sóc để giúp xoa dịu bản thân. Người chăm sóc có thể đưa ra những phiền nhiễu để chuyển hướng sự chú ý và thoải mái của trẻ sơ sinh để giảm bớt sự đau khổ về cảm xúc. Khi các khu vực của vỏ não trước trán của trẻ sơ sinh tiếp tục phát triển, trẻ sơ sinh có thể chịu đựng được nhiều kích thích hơn. Đến 4 đến 6 tháng, trẻ sơ sinh có thể bắt đầu chuyển sự chú ý của mình ra khỏi những kích thích khó chịu (Rothbart và cộng sự, 2006). Trẻ lớn hơn và trẻ mới biết đi có thể truyền đạt hiệu quả hơn nhu cầu giúp đỡ của chúng và có thể bò hoặc đi về phía hoặc tránh xa các tình huống khác nhau (Cole, Armstrong, & amp Pemberton, 2010). Điều này hỗ trợ khả năng tự điều chỉnh của họ. Tính khí cũng đóng một vai trò trong khả năng kiểm soát trạng thái cảm xúc của trẻ và sự khác biệt của từng cá nhân đã được ghi nhận trong quá trình tự điều chỉnh cảm xúc của trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi (Rothbart & amp Bates, 2006). 11

    clipboard_e8a748f47449be011dbce4c8b30789bfc.png
    Hình\(\PageIndex{3}\): Một đứa trẻ mới biết đi tại một công viên. (Hình ảnh được cấp phép theo CC0)

    Phát triển ý thức về bản thân: Trong năm thứ hai của cuộc đời, trẻ bắt đầu nhận ra bản thân khi chúng có được ý thức về bản thân tách biệt với người chăm sóc chính. Trong một thí nghiệm kinh điển của Lewis và Brooks (1978), trẻ em từ 9 đến 24 tháng tuổi được đặt trước gương sau khi một đốm phấn được đặt trên mũi khi mẹ chúng giả vờ lau thứ gì đó trên mặt của đứa trẻ. Nếu đứa trẻ phản ứng bằng cách chạm vào mũi của chính mình chứ không phải của “em bé” trong gương, nó được đưa ra để gợi ý rằng đứa trẻ nhận ra hình ảnh phản chiếu là chính mình. Lewis và Brooks phát hiện ra rằng ở đâu đó từ 15 đến 24 tháng tuổi, hầu hết trẻ sơ sinh phát triển ý thức về bản thân. Tự nhận thức là nhận ra rằng bạn tách biệt với những người khác (Kopp, 2011). Một khi một đứa trẻ đã đạt được sự tự nhận thức, đứa trẻ đang tiến tới việc hiểu những cảm xúc xã hội như cảm giác tội lỗi, xấu hổ hoặc bối rối, cũng như, sự cảm thông hoặc sự đồng cảm.


    This page titled 6.3: Cảm xúc trẻ sơ sinh is shared under a CC BY 4.0 license and was authored, remixed, and/or curated by Paris, Ricardo, Raymond, & Johnson (College of the Canyons) via source content that was edited to the style and standards of the LibreTexts platform.