Skip to main content
Social Sci LibreTexts

6.5: Hình thành tệp đính kèm

  • Page ID
    246015
  • \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\) \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    ( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\) \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\) \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\) \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\)

    \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\)

    \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\)

    \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\) \( \newcommand{\AA}{\unicode[.8,0]{x212B}}\)

    \( \newcommand{\vectorA}[1]{\vec{#1}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorAt}[1]{\vec{\text{#1}}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorB}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vectorC}[1]{\textbf{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorD}[1]{\overrightarrow{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorDt}[1]{\overrightarrow{\text{#1}}} \)

    \( \newcommand{\vectE}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash{\mathbf {#1}}}} \)

    \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \(\newcommand{\avec}{\mathbf a}\) \(\newcommand{\bvec}{\mathbf b}\) \(\newcommand{\cvec}{\mathbf c}\) \(\newcommand{\dvec}{\mathbf d}\) \(\newcommand{\dtil}{\widetilde{\mathbf d}}\) \(\newcommand{\evec}{\mathbf e}\) \(\newcommand{\fvec}{\mathbf f}\) \(\newcommand{\nvec}{\mathbf n}\) \(\newcommand{\pvec}{\mathbf p}\) \(\newcommand{\qvec}{\mathbf q}\) \(\newcommand{\svec}{\mathbf s}\) \(\newcommand{\tvec}{\mathbf t}\) \(\newcommand{\uvec}{\mathbf u}\) \(\newcommand{\vvec}{\mathbf v}\) \(\newcommand{\wvec}{\mathbf w}\) \(\newcommand{\xvec}{\mathbf x}\) \(\newcommand{\yvec}{\mathbf y}\) \(\newcommand{\zvec}{\mathbf z}\) \(\newcommand{\rvec}{\mathbf r}\) \(\newcommand{\mvec}{\mathbf m}\) \(\newcommand{\zerovec}{\mathbf 0}\) \(\newcommand{\onevec}{\mathbf 1}\) \(\newcommand{\real}{\mathbb R}\) \(\newcommand{\twovec}[2]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\ctwovec}[2]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\threevec}[3]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cthreevec}[3]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fourvec}[4]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfourvec}[4]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fivevec}[5]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfivevec}[5]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\mattwo}[4]{\left[\begin{array}{rr}#1 \amp #2 \\ #3 \amp #4 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\laspan}[1]{\text{Span}\{#1\}}\) \(\newcommand{\bcal}{\cal B}\) \(\newcommand{\ccal}{\cal C}\) \(\newcommand{\scal}{\cal S}\) \(\newcommand{\wcal}{\cal W}\) \(\newcommand{\ecal}{\cal E}\) \(\newcommand{\coords}[2]{\left\{#1\right\}_{#2}}\) \(\newcommand{\gray}[1]{\color{gray}{#1}}\) \(\newcommand{\lgray}[1]{\color{lightgray}{#1}}\) \(\newcommand{\rank}{\operatorname{rank}}\) \(\newcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\col}{\text{Col}}\) \(\renewcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\nul}{\text{Nul}}\) \(\newcommand{\var}{\text{Var}}\) \(\newcommand{\corr}{\text{corr}}\) \(\newcommand{\len}[1]{\left|#1\right|}\) \(\newcommand{\bbar}{\overline{\bvec}}\) \(\newcommand{\bhat}{\widehat{\bvec}}\) \(\newcommand{\bperp}{\bvec^\perp}\) \(\newcommand{\xhat}{\widehat{\xvec}}\) \(\newcommand{\vhat}{\widehat{\vvec}}\) \(\newcommand{\uhat}{\widehat{\uvec}}\) \(\newcommand{\what}{\widehat{\wvec}}\) \(\newcommand{\Sighat}{\widehat{\Sigma}}\) \(\newcommand{\lt}{<}\) \(\newcommand{\gt}{>}\) \(\newcommand{\amp}{&}\) \(\definecolor{fillinmathshade}{gray}{0.9}\)

    Sự gắn bó là mối liên kết chặt chẽ với người chăm sóc mà từ đó trẻ sơ sinh có được cảm giác an toàn. Sự hình thành các gắn bó trong giai đoạn trứng nước đã là chủ đề của nghiên cứu đáng kể vì các tệp đính kèm đã được coi là nền tảng cho các mối quan hệ trong tương lai. Ngoài ra, các tệp đính kèm tạo cơ sở cho sự tự tin và tò mò khi mới biết đi, và là những ảnh hưởng quan trọng đến khái niệm bản thân.

    clipboard_eba6bbb1edfee536bc88afd4000b7da6b.png
    Hình\(\PageIndex{1}\): Sự hình thành của sự gắn bó trong hành động khi một người cha rúc vào một đứa trẻ sơ sinh. (Hình ảnh của Andres và Antoinette Ricardo được sử dụng với sự cho phép)

    Lý thuyết phân tâm học của Freud

    Theo Freud (1938), trẻ sơ sinh là những sinh vật bằng miệng có được khoái cảm từ việc mút và ngậm đồ vật. Freud tin rằng trẻ sơ sinh sẽ trở nên gắn bó với một người hoặc đồ vật mang lại niềm vui này. Do đó, trẻ sơ sinh được cho là gắn bó với mẹ của chúng vì bà là người thỏa mãn nhu cầu miệng của chúng và mang lại niềm vui. Freud tiếp tục tin rằng trẻ sơ sinh sẽ trở nên gắn bó với mẹ của chúng “nếu người mẹ thoải mái và hào phóng trong thực hành cho ăn của mình, do đó cho phép đứa trẻ có nhiều khoái cảm bằng miệng,” (Shaffer, 1985, trang 435).

    Nghiên cứu của Harlow

    Trong một nghiên cứu kinh điển, các nhà tâm lý học Harry và Margaret Harlow của Đại học Wisconsin đã điều tra phản ứng của khỉ rhesus trẻ để khám phá xem việc cho con bú có phải là yếu tố quan trọng nhất để gắn bó hay không.

    clipboard_ea53cea48033017696e63128ca4b8c9d6.png
    Hình\(\PageIndex{2}\): Một con khỉ rhesus mút ngón tay cái của nó. (Hình ảnh của splotter_nl được cấp phép theo CCBY 2.0)

    Những con khỉ sơ sinh được tách ra khỏi mẹ ruột của chúng, và hai bà mẹ thay thế được đưa vào lồng của chúng. Người mẹ đầu tiên (mẹ dây) bao gồm một cái đầu gỗ tròn, một lưới dây kim loại lạnh và một chai sữa mà khỉ con có thể uống. Người mẹ thứ hai là một dạng cao su xốp được bọc trong một tấm chăn bằng vải terry được sưởi ấm. Những con khỉ sơ sinh đã đến chỗ mẹ dây để kiếm thức ăn, nhưng chúng cực kỳ thích và dành nhiều thời gian hơn đáng kể với mẹ bằng vải terry ấm áp. Người mẹ bằng vải terry ấm áp không cung cấp thức ăn nhưng đã mang lại sự thoải mái (Harlow, 1958). Nhu cầu gần gũi và chạm vào của trẻ sơ sinh được gọi là sự thoải mái khi tiếp xúc. Sự thoải mái khi tiếp xúc được cho là nền tảng cho sự gắn bó. Các nghiên cứu của Harlows xác nhận rằng trẻ sơ sinh có nhu cầu xã hội cũng như thể chất. Cả khỉ và con người đều cần một căn cứ an toàn cho phép chúng cảm thấy an toàn. Từ cơ sở này, họ có thể có được sự tự tin cần thiết để mạo hiểm và khám phá thế giới của họ.

    Lý thuyết của Bowlby

    Dựa trên công trình của Harlow và những người khác, John Bowlby đã phát triển khái niệm lý thuyết gắn bó. Ông định nghĩa sự gắn bó là mối quan hệ tình cảm hoặc ràng buộc mà trẻ sơ sinh hình thành với người mẹ (Bowlby, 1969). Trẻ sơ sinh phải hình thành mối liên kết này với người chăm sóc chính để có sự phát triển xã hội và cảm xúc bình thường. Ngoài ra, Bowlby đề xuất rằng mối quan hệ gắn bó này rất mạnh mẽ và tiếp tục trong suốt cuộc đời. Ông đã sử dụng khái niệm cơ sở an toàn để xác định sự gắn bó lành mạnh giữa cha mẹ và con cái (Bowlby, 1982). Một cơ sở an toàn là sự hiện diện của cha mẹ mang lại cho trẻ cảm giác an toàn khi trẻ khám phá môi trường xung quanh.

    clipboard_ecdbb89fab14e56a97a63273f4f1bd93a.png
    Hình\(\PageIndex{3}\): Một người mẹ cung cấp một cơ sở an toàn khi trẻ sơ sinh của cô ấy chơi trên cầu trượt. (Hình ảnh được cấp phép theo CC0)

    Bowlby nói rằng cần có hai điều để có sự gắn bó lành mạnh: Người chăm sóc phải đáp ứng các nhu cầu về thể chất, xã hội và tình cảm của trẻ; và người chăm sóc và trẻ em phải tham gia vào các tương tác thú vị lẫn nhau (Bowlby, 1969). Ngoài ra, Bowlby quan sát thấy rằng trẻ sơ sinh sẽ cố gắng hết sức để ngăn chặn sự xa cách với cha mẹ, chẳng hạn như khóc, từ chối được an ủi và chờ người chăm sóc trở lại.

    clipboard_ee935bfd320390865e568ee14454072c9.png
    Hình\(\PageIndex{4}\): Đứa trẻ này đang tìm kiếm sự thoải mái từ một nhân vật gắn bó. (Hình ảnh trên Pexels)

    Bowlby cũng quan sát thấy rằng những biểu hiện tương tự này là phổ biến đối với nhiều loài động vật có vú khác, và do đó lập luận rằng những phản ứng tiêu cực này đối với sự phân tách phục vụ một chức năng tiến hóa. Bởi vì trẻ sơ sinh động vật có vú không thể tự nuôi hoặc tự bảo vệ mình, chúng phụ thuộc vào sự chăm sóc và bảo vệ của người lớn để tồn tại. Do đó, những trẻ sơ sinh có thể duy trì sự gần gũi với một nhân vật gắn bó có nhiều khả năng sống sót và sinh sản hơn.

    Erikson: Niềm tin so với sự ngờ vực

    Như đã thảo luận trước đây trong chương 1, Erikson đã xây dựng một lý thuyết tám giai đoạn về sự phát triển tâm lý xã hội. Erikson đồng ý về tầm quan trọng của một cơ sở an toàn, cho rằng mục tiêu quan trọng nhất của giai đoạn trứng nước là phát triển ý thức cơ bản về sự tin tưởng vào những người chăm sóc của một người. Do đó, giai đoạn đầu tiên, niềm tin so với sự ngờ vực, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự gắn bó. Erikson khẳng định rằng năm đầu tiên đến năm rưỡi của cuộc đời liên quan đến việc thiết lập cảm giác tin tưởng (Erikson, 1982). Trẻ sơ sinh phụ thuộc và phải dựa vào người khác để đáp ứng các nhu cầu cơ bản về thể chất cũng như nhu cầu kích thích và thoải mái của chúng. Một người chăm sóc luôn đáp ứng những nhu cầu này sẽ thấm nhuần cảm giác tin tưởng hoặc niềm tin rằng thế giới là một nơi đáng tin cậy. Người chăm sóc không nên lo lắng về việc nuông chiều quá mức nhu cầu của trẻ về sự thoải mái, tiếp xúc hoặc kích thích.

    clipboard_ee55297358949e7f8e51e3409b21e68a3.png
    Hình\(\PageIndex{5}\): Người cha mặc đồ trẻ sơ sinh này đang tạo niềm tin với đứa con sơ sinh của mình. (Hình ảnh của Ferenc Horv ath trên Unsplash)

    Vấn đề thiết lập niềm tin

    Erikson (1982) tin rằng sự ngờ vực có thể làm ô nhiễm tất cả các khía cạnh của cuộc sống của một người và tước đi tình yêu thương và sự thông công của cá nhân với người khác. Xem xét các tác động của việc thiết lập lòng tin nếu người chăm sóc không có mặt hoặc buồn bã và không chuẩn bị tốt để chăm sóc một đứa trẻ. Hoặc nếu một đứa trẻ được sinh ra sớm, không mong muốn hoặc có vấn đề về thể chất khiến trẻ khó khăn hơn đối với cha mẹ. Trong những trường hợp này, chúng ta không thể cho rằng cha mẹ sẽ cung cấp cho đứa trẻ cảm giác tin tưởng.

    Mary Ainsworth và tình huống kỳ lạ

    Nhà tâm lý học phát triển Mary Ainsworth, một sinh viên của John Bowlby, tiếp tục nghiên cứu sự phát triển của sự gắn bó ở trẻ sơ sinh. Ainsworth và các đồng nghiệp của cô đã tạo ra một thử nghiệm trong phòng thí nghiệm để đo lường sự gắn bó của trẻ sơ sinh với cha mẹ của mình. Bài kiểm tra được gọi là Tình huống kỳ lạ vì nó được tiến hành trong bối cảnh không quen thuộc với trẻ và do đó có khả năng nâng cao nhu cầu của trẻ đối với cha mẹ (Ainsworth, 1979).

    clipboard_e374d1221b5180bdec4468dc24443d579.png
    Hình\(\PageIndex{6}\): Một đứa trẻ sơ sinh bò trên sàn nhà với đồ chơi xung quanh như được thực hiện trong Tình huống kỳ lạ. (Hình ảnh thuộc phạm vi công cộng)

    Trong suốt quá trình, kéo dài khoảng 20 phút, cha mẹ và trẻ sơ sinh đầu tiên bị bỏ lại một mình, trong khi trẻ sơ sinh khám phá căn phòng đầy đồ chơi. Sau đó, một người lớn lạ vào phòng và nói chuyện trong một phút với cha mẹ, sau đó cha mẹ rời khỏi phòng. Người lạ ở lại với trẻ sơ sinh trong vài phút, và sau đó cha mẹ lại bước vào và người lạ rời khỏi phòng. Trong toàn bộ phiên, một máy quay video ghi lại các hành vi của trẻ, sau đó được mã hóa bởi nhóm nghiên cứu. Các nhà điều tra đặc biệt quan tâm đến cách đứa trẻ phản ứng với việc người chăm sóc rời đi và trở về phòng, được gọi là “cuộc hội ngộ”. Trên cơ sở hành vi của chúng, trẻ em được phân loại thành một trong bốn nhóm, trong đó mỗi nhóm phản ánh một loại mối quan hệ gắn bó khác nhau với người chăm sóc. Một phong cách là an toàn và ba phong cách còn lại được gọi là không an toàn.

    • Một đứa trẻ có phong cách gắn bó an toàn thường tự do khám phá trong khi người chăm sóc có mặt và có thể tương tác với người lạ. Trẻ thường sẽ chơi với đồ chơi và mang một cái đến cho người chăm sóc để hiển thị và mô tả theo thời gian. Đứa trẻ có thể buồn bã khi người chăm sóc khởi hành, nhưng cũng rất vui khi thấy người chăm sóc trở lại.
    • Một đứa trẻ có phong cách gắn bó xung quanh (đôi khi được gọi là kháng cự) cảnh giác với tình huống nói chung, đặc biệt là người lạ, và ở gần hoặc thậm chí bám vào người chăm sóc hơn là khám phá đồ chơi. Khi người chăm sóc rời đi, đứa trẻ vô cùng đau khổ và mâu thuẫn khi người chăm sóc trở về. Đứa trẻ có thể vội vã đến người chăm sóc, nhưng sau đó không được an ủi khi được đón. Đứa trẻ vẫn có thể tức giận và thậm chí chống lại những nỗ lực để được xoa dịu.
    • Một đứa trẻ có phong cách gắn bó tránh né sẽ tránh hoặc bỏ qua người mẹ, ít thể hiện cảm xúc khi người mẹ khởi hành hoặc trở về. Đứa trẻ có thể chạy trốn khỏi người mẹ khi cô đến gần. Đứa trẻ sẽ không khám phá nhiều, bất kể ai ở đó, và người lạ sẽ không được đối xử khác nhiều so với người mẹ.
    • Một đứa trẻ với phong cách gắn bó vô tổ chức/mất phương hướng dường như có một cách không nhất quán để đối phó với sự căng thẳng của tình huống kỳ lạ. Đứa trẻ có thể khóc trong khi chia tay, nhưng tránh người mẹ khi cô ấy trở về, hoặc đứa trẻ có thể tiếp cận người mẹ nhưng sau đó đóng băng hoặc rơi xuống sàn.

    Phong cách gắn bó ở trẻ em ở Hoa Kỳ phổ biến như thế nào? Người ta ước tính rằng khoảng 65 phần trăm trẻ em ở Hoa Kỳ được gắn bó an toàn. Hai mươi phần trăm thể hiện phong cách tránh né và 10 đến 15 phần trăm là xung đột. 5 đến 10 phần trăm khác có thể được mô tả là vô tổ chức.

    Một số khác biệt về văn hóa trong phong cách gắn bó đã được tìm thấy (Rothbaum, Weisz, Pott, Miyake, & amp Morelli, 2010). Ví dụ, cha mẹ Đức coi trọng sự độc lập và các bà mẹ Nhật Bản thường đứng về phía con cái họ. Do đó, tỷ lệ đính kèm tránh an toàn cao hơn ở Đức và các tệp đính kèm chống an toàn cao hơn ở Nhật Bản. Tuy nhiên, những khác biệt này phản ánh sự biến đổi văn hóa hơn là sự bất an thực sự (van Ijzendoorn và Sagi, 1999).

    Hãy nhớ rằng các phương pháp đo lường kiểu đính kèm dựa trên một mô hình phản ánh các giá trị và cách giải thích của tầng lớp trung lưu, Hoa Kỳ. Các phương pháp mới hơn để đánh giá kiểu đính kèm liên quan đến việc sử dụng kỹ thuật sắp xếp Q, trong đó một số lượng lớn các hành vi được ghi lại trên thẻ và người quan sát sắp xếp các thẻ theo cách phản ánh loại hành vi xảy ra trong tình huống (Waters, 1987). Có 90 mục trong phiên bản thứ ba của kỹ thuật Q-sort và các ví dụ về các hành vi được đánh giá bao gồm:

    • Khi trẻ trở về với mẹ sau khi chơi, trẻ đôi khi quấy khóc mà không có lý do rõ ràng.
    • Khi đứa trẻ buồn bã hoặc bị thương, đứa trẻ sẽ chấp nhận sự an ủi từ người lớn không phải mẹ.
    • Trẻ thường ôm hoặc âu yếm mẹ, mà không cần mẹ yêu cầu hoặc mời trẻ làm như vậy.
    • Khi đứa trẻ buồn bã vì sự ra đi của mẹ, đứa trẻ tiếp tục khóc hoặc thậm chí tức giận sau khi cô ấy đi vắng.

    Ít nhất hai nhà nghiên cứu quan sát đứa trẻ và cha mẹ trong nhà trong 1,5-2 giờ mỗi lần khám. Thông thường hai chuyến thăm là đủ để thu thập thông tin đầy đủ. Phụ huynh được hỏi liệu các hành vi được quan sát có phải là điển hình cho trẻ hay không. Thông tin này được sử dụng để kiểm tra tính hợp lệ của các phân loại Tình huống kỳ lạ theo độ tuổi, nền văn hóa và với các quần thể lâm sàng.

    Tính nhất quán của người chăm sóc

    Có một người chăm sóc nhất quán có thể bị nguy hiểm nếu trẻ sơ sinh được chăm sóc trong môi trường giữ trẻ với sự luân chuyển nhân viên cao hoặc nếu được thể chế hóa và được chăm sóc nhiều hơn chăm sóc thể chất cơ bản.

    Trẻ sơ sinh, có lẽ vì ở trong trại trẻ mồ côi với sự chăm sóc không đầy đủ, không có cơ hội gắn bó trong giai đoạn trứng nước vẫn có thể hình thành các tệp đính kèm an toàn ban đầu vài năm sau đó. Tuy nhiên, họ có thể gặp nhiều vấn đề về cảm xúc hơn như trầm cảm, tức giận hoặc quá thân thiện khi tương tác với người khác (O'Connor và cộng sự, 2003).

    Tước xã hội

    Sự thiếu hụt nghiêm trọng của sự gắn bó của cha mẹ có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng. Theo các nghiên cứu về những đứa trẻ không được chăm sóc ấm áp, nuôi dưỡng, chúng có thể biểu hiện chậm phát triển, không phát triển và rối loạn gắn bó (Bowlby, 1982). Không phát triển mạnh không hữu cơ là chẩn đoán cho trẻ sơ sinh không tăng trưởng, phát triển hoặc tăng cân đúng tiến độ. Ngoài ra, trầm cảm sau sinh có thể khiến ngay cả một người mẹ có thiện chí bỏ bê đứa con của mình.

    clipboard_e64f5fa5133de2b76f863472506de5781.png
    Hình\(\PageIndex{7}\): Đây là một vườn ươm dân cư vào năm 1888. (Hình ảnh thuộc phạm vi công cộng)

    Rối loạn đính kèm phản ứng

    Trẻ em bị xã hội bỏ bê hoặc thiếu hụt, liên tục thay đổi người chăm sóc chính để hạn chế cơ hội hình thành các tệp đính kèm ổn định hoặc được nuôi dưỡng trong những môi trường bất thường (chẳng hạn như các tổ chức) hạn chế cơ hội hình thành các tệp đính kèm ổn định chắc chắn có thể gặp khó khăn trong việc hình thành các tệp đính kèm. Theo Chẩn đoán và Sổ tay về Rối loạn Tâm thần, ấn bản lần thứ 5 (Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, 2013), những đứa trẻ trải qua những tình huống lơ là và cũng thể hiện hành vi gắn bó bị xáo trộn rõ rệt và không phù hợp về mặt phát triển, chẳng hạn như bị ức chế và rút lui, phản ứng xã hội và cảm xúc tối thiểu với người khác, và ảnh hưởng tích cực hạn chế, có thể được chẩn đoán là Rối loạn Đính kèm Phản ứng. Rối loạn này thường xảy ra với sự chậm phát triển, đặc biệt là trong các lĩnh vực nhận thức và ngôn ngữ. May mắn thay, phần lớn trẻ em bị bỏ rơi nghiêm trọng không phát triển Rối loạn Đính kèm Phản ứng, xảy ra ở dưới 10% trẻ em như vậy. Chất lượng của môi trường chăm sóc sau khi bỏ bê nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của rối loạn này.

    Khả năng phục hồi

    Có thể vượt qua thử thách và thích nghi thành công là khả năng phục hồi. Ngay cả trẻ nhỏ cũng có thể thể hiện khả năng phục hồi mạnh mẽ trước hoàn cảnh khắc nghiệt. Khả năng phục hồi có thể được quy cho các yếu tố tính cách nhất định, chẳng hạn như tính khí dễ gần. Một số trẻ ấm áp, thân thiện và nhạy bén, trong khi những trẻ khác có xu hướng cáu kỉnh hơn, ít quản lý hơn và khó điều khiển, và những khác biệt này đóng một vai trò trong sự gắn bó (Gillath, Shaver, Baek, & Chun, 2008; Seifer, Schiller, Sameroff, Resnick, & Riordan, 1996). Có vẻ an toàn khi nói rằng sự gắn bó, giống như hầu hết các quá trình phát triển khác, bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp giữa các ảnh hưởng di truyền và xã hội hóa.

    Nhận được sự hỗ trợ từ những người khác cũng dẫn đến khả năng phục hồi. Một nhóm hỗ trợ tích cực và mạnh mẽ có thể giúp cha mẹ và trẻ em xây dựng một nền tảng vững chắc bằng cách cung cấp hỗ trợ và thái độ tích cực đối với trẻ sơ sinh và cha mẹ. Trong một thử nghiệm trực tiếp về ý tưởng này, nhà nghiên cứu người Hà Lan van den Boom (1994) đã chỉ định ngẫu nhiên một số bà mẹ của trẻ sơ sinh vào một buổi đào tạo trong đó họ học cách đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con cái họ. Nghiên cứu cho thấy những đứa trẻ của những bà mẹ này có nhiều khả năng thể hiện phong cách gắn bó an toàn hơn so với những bà mẹ trong nhóm đối chứng không được đào tạo. 22

    clipboard_e808c60ebf6bc04ad224badf1e3334194.png
    Hình\(\PageIndex{8}\): Lớp học mát xa cho trẻ sơ sinh dành cho các bà mẹ mới sinh này có thể cung cấp đào tạo và hỗ trợ cho các bà mẹ. (Hình ảnh thuộc phạm vi công cộng)

    This page titled 6.5: Hình thành tệp đính kèm is shared under a CC BY 4.0 license and was authored, remixed, and/or curated by Paris, Ricardo, Raymond, & Johnson (College of the Canyons) via source content that was edited to the style and standards of the LibreTexts platform.