Skip to main content
Social Sci LibreTexts

9.4: Bản dạng giới, sự không đổi giới và vai trò giới

  • Page ID
    245926
  • \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\) \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    ( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\) \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\) \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\) \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\)

    \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\)

    \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\)

    \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\) \( \newcommand{\AA}{\unicode[.8,0]{x212B}}\)

    \( \newcommand{\vectorA}[1]{\vec{#1}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorAt}[1]{\vec{\text{#1}}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorB}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vectorC}[1]{\textbf{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorD}[1]{\overrightarrow{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorDt}[1]{\overrightarrow{\text{#1}}} \)

    \( \newcommand{\vectE}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash{\mathbf {#1}}}} \)

    \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \(\newcommand{\avec}{\mathbf a}\) \(\newcommand{\bvec}{\mathbf b}\) \(\newcommand{\cvec}{\mathbf c}\) \(\newcommand{\dvec}{\mathbf d}\) \(\newcommand{\dtil}{\widetilde{\mathbf d}}\) \(\newcommand{\evec}{\mathbf e}\) \(\newcommand{\fvec}{\mathbf f}\) \(\newcommand{\nvec}{\mathbf n}\) \(\newcommand{\pvec}{\mathbf p}\) \(\newcommand{\qvec}{\mathbf q}\) \(\newcommand{\svec}{\mathbf s}\) \(\newcommand{\tvec}{\mathbf t}\) \(\newcommand{\uvec}{\mathbf u}\) \(\newcommand{\vvec}{\mathbf v}\) \(\newcommand{\wvec}{\mathbf w}\) \(\newcommand{\xvec}{\mathbf x}\) \(\newcommand{\yvec}{\mathbf y}\) \(\newcommand{\zvec}{\mathbf z}\) \(\newcommand{\rvec}{\mathbf r}\) \(\newcommand{\mvec}{\mathbf m}\) \(\newcommand{\zerovec}{\mathbf 0}\) \(\newcommand{\onevec}{\mathbf 1}\) \(\newcommand{\real}{\mathbb R}\) \(\newcommand{\twovec}[2]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\ctwovec}[2]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\threevec}[3]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cthreevec}[3]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fourvec}[4]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfourvec}[4]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fivevec}[5]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfivevec}[5]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\mattwo}[4]{\left[\begin{array}{rr}#1 \amp #2 \\ #3 \amp #4 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\laspan}[1]{\text{Span}\{#1\}}\) \(\newcommand{\bcal}{\cal B}\) \(\newcommand{\ccal}{\cal C}\) \(\newcommand{\scal}{\cal S}\) \(\newcommand{\wcal}{\cal W}\) \(\newcommand{\ecal}{\cal E}\) \(\newcommand{\coords}[2]{\left\{#1\right\}_{#2}}\) \(\newcommand{\gray}[1]{\color{gray}{#1}}\) \(\newcommand{\lgray}[1]{\color{lightgray}{#1}}\) \(\newcommand{\rank}{\operatorname{rank}}\) \(\newcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\col}{\text{Col}}\) \(\renewcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\nul}{\text{Nul}}\) \(\newcommand{\var}{\text{Var}}\) \(\newcommand{\corr}{\text{corr}}\) \(\newcommand{\len}[1]{\left|#1\right|}\) \(\newcommand{\bbar}{\overline{\bvec}}\) \(\newcommand{\bhat}{\widehat{\bvec}}\) \(\newcommand{\bperp}{\bvec^\perp}\) \(\newcommand{\xhat}{\widehat{\xvec}}\) \(\newcommand{\vhat}{\widehat{\vvec}}\) \(\newcommand{\uhat}{\widehat{\uvec}}\) \(\newcommand{\what}{\widehat{\wvec}}\) \(\newcommand{\Sighat}{\widehat{\Sigma}}\) \(\newcommand{\lt}{<}\) \(\newcommand{\gt}{>}\) \(\newcommand{\amp}{&}\) \(\definecolor{fillinmathshade}{gray}{0.9}\)

    Một khía cạnh quan trọng khác của bản thân là ý thức về bản thân là nam hay nữ. Trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo ngày càng quan tâm đến việc tìm hiểu sự khác biệt giữa bé trai và bé gái cả về thể chất và về những hoạt động nào được chấp nhận cho mỗi người. Trong khi trẻ 2 tuổi có thể xác định một số khác biệt và tìm hiểu xem chúng là trai hay gái, trẻ mẫu giáo trở nên quan tâm hơn đến ý nghĩa của việc trở thành nam hay nữ. Việc tự xác định hoặc bản dạng giới này được tuân theo sau đó với sự ổn định về giới tính hoặc kiến thức rằng giới tính không thay đổi. Vai trò giới hoặc các quyền và kỳ vọng liên quan đến việc trở thành nam hoặc nữ được học trong suốt thời thơ ấu và đến tuổi trưởng thành.

    Freud và giai đoạn Phallic

    Freud tin rằng nam tính và nữ tính đã được học trong giai đoạn phát triển tâm lý. Theo Freud, trong giai đoạn phallic, đứa trẻ phát triển sự hấp dẫn đối với cha mẹ khác giới nhưng sau khi nhận ra rằng chúng không thể thực sự có mối quan hệ lãng mạn với cha mẹ đó, đứa trẻ học cách mô hình hóa hành vi của chính mình sau cha mẹ đồng giới. Đứa trẻ phát triển ý thức nam tính hoặc nữ tính của riêng mình từ quyết tâm này. Và, theo Freud, một người không thể hiện hành vi phù hợp với giới tính, chẳng hạn như một người phụ nữ cạnh tranh với đàn ông để kiếm việc làm hoặc một người đàn ông thiếu tự tin và thống trị, đã không hoàn thành thành công giai đoạn phát triển này. Do đó, một người như vậy tiếp tục đấu tranh với bản sắc giới tính của chính mình.

    Chodorow và Mothering

    Chodorow, một người theo trường phái Tân Freud, tin rằng việc làm mẹ thúc đẩy hành vi định kiến giới. Các bà mẹ đẩy con trai đi quá sớm và hướng sự chú ý của chúng vào việc giải quyết vấn đề và độc lập. Kết quả là, con trai lớn lên tự tin vào khả năng của chính mình nhưng không thoải mái với sự thân mật. Các cô gái bị phụ thuộc quá lâu và được mẹ hỗ trợ không cần thiết và thậm chí không mong muốn. Các cô gái học cách đánh giá thấp khả năng của mình và thiếu quyết đoán nhưng cảm thấy thoải mái với sự thân mật.

    clipboard_efe6138585a54928c9889487a49a12d79.png
    Hình\(\PageIndex{1}\): Một cậu bé thể hiện sự độc lập và tự tin. (Hình ảnh của Adam Jones được cấp phép theo CC-BY-SA 2.0)
    clipboard_e469ae0e56d1f0931717900041d037114.png
    Hình\(\PageIndex{2}\): Một cô gái thể hiện sự phụ thuộc và thoải mái trong một mối quan hệ. (Ảnh: Free-Photos trên Pixabay)

    Cả hai mô hình này đều giả định rằng trải nghiệm thời thơ ấu dẫn đến các khái niệm về giới tính suốt đời. Tuy nhiên, xã hội hóa giới là một quá trình tiếp tục trong suốt cuộc đời. Trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn tinh chỉnh và có thể sửa đổi ý thức về bản thân dựa trên giới tính.

    Học thông qua củng cố và mô hình hóa

    Các nhà lý thuyết học tập cho rằng xã hội hóa vai trò giới là kết quả của những cách thức mà cha mẹ, giáo viên, bạn bè, trường học, tổ chức tôn giáo, phương tiện truyền thông và những người khác gửi thông điệp về những gì được chấp nhận hoặc hành vi mong muốn như nam hay nữ. Sự xã hội hóa này bắt đầu sớm - thực tế, nó thậm chí có thể bắt đầu ngay khi cha mẹ biết rằng một đứa trẻ đang trên đường đến. Biết giới tính của đứa trẻ có thể gợi lên hình ảnh về hành vi, ngoại hình và tiềm năng của trẻ từ phía cha mẹ. Và định kiến này tiếp tục hướng dẫn nhận thức trong suốt cuộc sống. Hãy xem xét cha mẹ của trẻ sơ sinh, cho thấy một em bé nặng 7 pound, 20 inch, được bọc trong màu xanh lam (màu chỉ định con đực) mô tả đứa trẻ là người cứng rắn, mạnh mẽ và tức giận khi khóc. Cho thấy cùng một đứa trẻ sơ sinh màu hồng (một màu được sử dụng ở Hoa Kỳ cho các bé gái), những bậc cha mẹ này có khả năng mô tả em bé xinh đẹp, tinh tế và thất vọng khi khóc. (Maccoby & amp Jacklin, 1987). Trẻ sơ sinh nữ được bế nhiều hơn, nói chuyện thường xuyên hơn và giao tiếp bằng mắt trực tiếp, trong khi trẻ sơ sinh nam chơi thường được trung gian thông qua một món đồ chơi hoặc hoạt động.

    Con trai được giao các nhiệm vụ đưa chúng ra ngoài nhà và chỉ phải được thực hiện vào dịp này trong khi các bé gái có nhiều khả năng được giao các công việc trong nhà như dọn dẹp hoặc nấu ăn được thực hiện hàng ngày. Con trai được khuyến khích tự suy nghĩ khi gặp vấn đề và con gái có nhiều khả năng được hỗ trợ ngay cả khi chúng đang tìm kiếm câu trả lời. Sự thiếu kiên nhẫn này được phản ánh trong việc giáo viên chờ đợi ít thời gian hơn khi hỏi một nữ sinh câu trả lời so với khi yêu cầu trả lời từ một học sinh nam (Sadker và Sadker, 1994). Các cô gái được giáo viên đưa ra thông điệp rằng họ phải cố gắng hơn nữa và chịu đựng để thành công trong khi thành công của các chàng trai được quy cho trí thông minh của họ. Tất nhiên, định kiến của các cố vấn cũng có thể ảnh hưởng đến loại khóa học hoặc lựa chọn nghề nghiệp mà các cô gái và chàng trai được khuyến khích thực hiện.

    Bạn bè thảo luận về những gì được chấp nhận đối với con trai và con gái và sự nổi tiếng có thể dựa trên việc mô hình hóa những gì được coi là hành vi lý tưởng hoặc tìm kiếm giới tính. Các cô gái có xu hướng nói với nhau những bí mật để xác nhận người khác là bạn thân trong khi các chàng trai cạnh tranh cho vị trí bằng cách nhấn mạnh kiến thức, sức mạnh hoặc thành tích của họ. Sự tập trung vào thành tích này thậm chí có thể làm phát sinh thành tích phóng đại ở trẻ em trai, nhưng các cô gái không được khuyến khích thể hiện và kết quả là có thể học cách giảm thiểu thành tích của họ.

    Thông điệp giới tính có rất nhiều trong môi trường của chúng ta. Nhưng điều này có nghĩa là mỗi người chúng ta tiếp nhận và giải thích những thông điệp này theo cùng một cách? Có lẽ là không. Ngoài việc nhận được những kỳ vọng văn hóa này, chúng tôi là những cá nhân cũng sửa đổi những vai trò này (Kimmel, 2008). Dựa trên những gì trẻ nhỏ học được về giới tính từ cha mẹ, bạn bè đồng trang lứa và những người chúng quan sát trong xã hội, trẻ em phát triển quan niệm của riêng mình về các thuộc tính liên quan đến nam tính hoặc nữ tính được gọi là lược đồ giới tính.

    Giới tính quan trọng bao nhiêu? Ở Hoa Kỳ, sự khác biệt về giới được tìm thấy trong trải nghiệm ở trường (ngay cả khi vào đại học và trường chuyên nghiệp, các cô gái ít nói trong lớp học và có nhiều nguy cơ bị quấy rối tình dục từ giáo viên, huấn luyện viên, bạn cùng lớp và giáo sư), trong các tương tác xã hội và trong các tin nhắn truyền thông. Định kiến rằng con trai nên mạnh mẽ, mạnh mẽ, năng động, thống trị và lý trí và rằng các cô gái nên xinh đẹp, cấp dưới, không thông minh, tình cảm và gabby được miêu tả trong đồ chơi trẻ em, sách, quảng cáo, trò chơi điện tử, phim ảnh, chương trình truyền hình và âm nhạc.

    clipboard_e452577a5e0c5c6be29e5273fc6b69c53.png
    Hình\(\PageIndex{3}\): Kệ chứa đầy màu hồng và tím và đồ chơi của bé gái. (Hình ảnh của Janet McKnight được cấp phép theo CCBY 2.0)
    clipboard_e8444357932868b5ffc2c25e1c09bddc8.png
    Hình\(\PageIndex{4}\): Kệ cửa hàng chứa đầy màu cơ bản và đồ chơi của bé trai. (Hình ảnh của Janet McKnight được cấp phép theo CCBY 2.0)

    Ở tuổi trưởng thành, những khác biệt này được phản ánh trong khoảng cách thu nhập giữa nam và nữ, nơi phụ nữ làm việc toàn thời gian kiếm được khoảng 74% thu nhập của nam giới, tỷ lệ phụ nữ bị hiếp dâm và bạo lực gia đình cao hơn, tỷ lệ rối loạn ăn uống ở nữ cao hơn và tỷ lệ tử vong bạo lực cao hơn đối với nam giới ở tuổi trưởng thành trẻ. Mỗi sự khác biệt này sẽ được khám phá thêm trong các chương tiếp theo. 13

    Dysphoria giới tính

    Ngày càng có nhiều nghiên cứu tập trung vào Chứng khó nuốt giới tính, hoặc sự đau khổ đi kèm với sự không phù hợp giữa bản dạng giới và giới tính sinh học của một người (Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, 2013). Mặc dù tỷ lệ lưu hành thấp, khoảng 0,3% dân số Hoa Kỳ (Russo, 2016), những đứa trẻ sau này được xác định là chuyển giới, thường tuyên bố rằng chúng là người khác giới ngay khi chúng bắt đầu nói chuyện. Những nhận xét như nói rằng họ thích đồ chơi, quần áo và giải phẫu của người khác giới, trong khi từ chối đồ chơi, quần áo và giải phẫu giới tính được chỉ định của họ là tiêu chí để chẩn đoán Rối loạn giới tính ở trẻ em. Chắc chắn, nhiều trẻ nhỏ không phù hợp với vai trò giới được mô hình hóa bởi văn hóa và thậm chí đẩy lùi các vai trò được giao. Tuy nhiên, họ không cảm thấy khó chịu về bản dạng giới của mình và sẽ không được xác định với Chứng khó nuốt giới tính. Mô tả toàn diện hơn về Chứng khó nuốt giới tính, bao gồm các phương pháp điều trị hiện tại, sẽ được thảo luận trong chương về tuổi vị thành niên. 14

    Những người đóng góp và ghi nhận

    13. Phát triển tuổi thọ - Mô-đun 5: Thời thơ ấu của Lumen Learning tham khảo Tâm lý học tuổi thọ Psyc 200 của Laura Overstreet, được cấp phép theo CCBY 4.0; Phát triển tuổi thọ: Quan điểm tâm lý của Martha Lally và Suzanne Valentine-French được cấp phép theo CCBY-NC-SA 3.0

    14. Phát triển tuổi thọ: Quan điểm tâm lý của Martha Lally và Suzanne Valentine-French được cấp phép theo C BY-NC-SA 3.0


    This page titled 9.4: Bản dạng giới, sự không đổi giới và vai trò giới is shared under a CC BY 4.0 license and was authored, remixed, and/or curated by Paris, Ricardo, Raymond, & Johnson (College of the Canyons) via source content that was edited to the style and standards of the LibreTexts platform.