Skip to main content
Social Sci LibreTexts

11.6: Kiểm tra trí thông minh - Cái gì, Tại sao và Ai

  • Page ID
    245969
  • \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\) \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    ( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\) \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\) \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\) \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\)

    \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\)

    \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\)

    \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\) \( \newcommand{\AA}{\unicode[.8,0]{x212B}}\)

    \( \newcommand{\vectorA}[1]{\vec{#1}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorAt}[1]{\vec{\text{#1}}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorB}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vectorC}[1]{\textbf{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorD}[1]{\overrightarrow{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorDt}[1]{\overrightarrow{\text{#1}}} \)

    \( \newcommand{\vectE}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash{\mathbf {#1}}}} \)

    \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \(\newcommand{\avec}{\mathbf a}\) \(\newcommand{\bvec}{\mathbf b}\) \(\newcommand{\cvec}{\mathbf c}\) \(\newcommand{\dvec}{\mathbf d}\) \(\newcommand{\dtil}{\widetilde{\mathbf d}}\) \(\newcommand{\evec}{\mathbf e}\) \(\newcommand{\fvec}{\mathbf f}\) \(\newcommand{\nvec}{\mathbf n}\) \(\newcommand{\pvec}{\mathbf p}\) \(\newcommand{\qvec}{\mathbf q}\) \(\newcommand{\svec}{\mathbf s}\) \(\newcommand{\tvec}{\mathbf t}\) \(\newcommand{\uvec}{\mathbf u}\) \(\newcommand{\vvec}{\mathbf v}\) \(\newcommand{\wvec}{\mathbf w}\) \(\newcommand{\xvec}{\mathbf x}\) \(\newcommand{\yvec}{\mathbf y}\) \(\newcommand{\zvec}{\mathbf z}\) \(\newcommand{\rvec}{\mathbf r}\) \(\newcommand{\mvec}{\mathbf m}\) \(\newcommand{\zerovec}{\mathbf 0}\) \(\newcommand{\onevec}{\mathbf 1}\) \(\newcommand{\real}{\mathbb R}\) \(\newcommand{\twovec}[2]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\ctwovec}[2]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\threevec}[3]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cthreevec}[3]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fourvec}[4]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfourvec}[4]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fivevec}[5]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfivevec}[5]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\mattwo}[4]{\left[\begin{array}{rr}#1 \amp #2 \\ #3 \amp #4 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\laspan}[1]{\text{Span}\{#1\}}\) \(\newcommand{\bcal}{\cal B}\) \(\newcommand{\ccal}{\cal C}\) \(\newcommand{\scal}{\cal S}\) \(\newcommand{\wcal}{\cal W}\) \(\newcommand{\ecal}{\cal E}\) \(\newcommand{\coords}[2]{\left\{#1\right\}_{#2}}\) \(\newcommand{\gray}[1]{\color{gray}{#1}}\) \(\newcommand{\lgray}[1]{\color{lightgray}{#1}}\) \(\newcommand{\rank}{\operatorname{rank}}\) \(\newcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\col}{\text{Col}}\) \(\renewcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\nul}{\text{Nul}}\) \(\newcommand{\var}{\text{Var}}\) \(\newcommand{\corr}{\text{corr}}\) \(\newcommand{\len}[1]{\left|#1\right|}\) \(\newcommand{\bbar}{\overline{\bvec}}\) \(\newcommand{\bhat}{\widehat{\bvec}}\) \(\newcommand{\bperp}{\bvec^\perp}\) \(\newcommand{\xhat}{\widehat{\xvec}}\) \(\newcommand{\vhat}{\widehat{\vvec}}\) \(\newcommand{\uhat}{\widehat{\uvec}}\) \(\newcommand{\what}{\widehat{\wvec}}\) \(\newcommand{\Sighat}{\widehat{\Sigma}}\) \(\newcommand{\lt}{<}\) \(\newcommand{\gt}{>}\) \(\newcommand{\amp}{&}\) \(\definecolor{fillinmathshade}{gray}{0.9}\)

    Đo lường trí thông minh: Tiêu chuẩn hóa và Chỉ số thông minh

    Mục tiêu của hầu hết các bài kiểm tra trí thông minh là đo “g”, yếu tố trí thông minh chung. Các bài kiểm tra trí thông minh tốt là đáng tin cậy, có nghĩa là chúng nhất quán theo thời gian và cũng chứng minh tính hợp lệ, có nghĩa là chúng thực sự đo lường trí thông minh hơn là một thứ khác. Bởi vì trí thông minh là một phần quan trọng của sự khác biệt cá nhân, các nhà tâm lý học đã đầu tư nỗ lực đáng kể vào việc tạo ra và cải thiện các thước đo trí thông minh, và những bài kiểm tra này hiện được coi là chính xác nhất trong tất cả các bài kiểm tra tâm lý.

    Trí thông minh thay đổi theo tuổi tác. Một đứa trẻ 3 tuổi có thể nhân chính xác 183 với 39 chắc chắn sẽ thông minh, nhưng một đứa trẻ 25 tuổi không thể làm như vậy sẽ bị coi là không thông minh. Do đó, hiểu được trí thông minh đòi hỏi chúng ta phải biết các chuẩn mực hoặc tiêu chuẩn trong một quần thể người nhất định ở một độ tuổi nhất định. Việc tiêu chuẩn hóa một bài kiểm tra liên quan đến việc đưa nó cho một số lượng lớn người ở các độ tuổi khác nhau và tính điểm trung bình của bài kiểm tra ở mỗi cấp độ tuổi.

    Khi tiêu chuẩn hóa đã được hoàn thành, chúng ta có một bức tranh về khả năng trung bình của mọi người ở các độ tuổi khác nhau và có thể tính tuổi tinh thần của một người, đó là độ tuổi mà một người đang thực hiện trí tuệ. Nếu chúng ta so sánh tuổi tinh thần của một người với tuổi theo thời gian của người đó, kết quả là Chỉ số thông minh (IQ), một thước đo trí thông minh được điều chỉnh theo độ tuổi. Một cách đơn giản để tính IQ là sử dụng công thức sau:

    IQ = tuổi tinh thần ÷ tuổi theo thời gian × 100.

    Do đó, một đứa trẻ 10 tuổi làm tốt như đứa trẻ 10 tuổi trung bình có chỉ số IQ là 100 (10 ÷ 10 × 100), trong khi một đứa trẻ 8 tuổi làm tốt như đứa trẻ 10 tuổi trung bình sẽ có chỉ số IQ là 125 (10 ÷ 8 × 100). Hầu hết các bài kiểm tra trí thông minh hiện đại đều dựa trên vị trí tương đối của điểm số của một người trong số những người cùng tuổi, thay vì dựa trên công thức này, nhưng ý tưởng về “tỷ lệ” hoặc “thương số” thông minh cung cấp một mô tả tốt về ý nghĩa của điểm số.

    Hiệu ứng Flynn

    Điều quan trọng là các bài kiểm tra trí thông minh phải được chuẩn hóa một cách thường xuyên, bởi vì mức độ thông minh tổng thể trong dân số có thể thay đổi theo thời gian. Hiệu ứng Flynn đề cập đến quan sát rằng điểm số trong các bài kiểm tra trí thông minh trên toàn thế giới đã tăng lên đáng kể trong những thập kỷ qua (Flynn, 1999). Mặc dù sự gia tăng có phần khác nhau giữa các quốc gia, mức tăng trung bình là khoảng 3 điểm IQ cứ sau 10 năm. Có nhiều cách giải thích cho hiệu ứng Flynn, bao gồm dinh dưỡng tốt hơn, tăng khả năng tiếp cận thông tin và quen thuộc hơn với các bài kiểm tra trắc nghiệm (Neisser, 1998). Nhưng liệu mọi người có thực sự trở nên thông minh hơn hay không vẫn còn gây tranh cãi (Neisser, 1997).

    Giá trị của IQ Testing

    Giá trị của bài kiểm tra IQ thể hiện rõ nhất trong các cơ sở giáo dục hoặc lâm sàng. Trẻ em dường như đang gặp khó khăn trong học tập hoặc các vấn đề hành vi nghiêm trọng có thể được kiểm tra để xác định xem liệu những khó khăn của trẻ có thể được quy một phần là do điểm IQ khác biệt đáng kể so với mức trung bình của nhóm tuổi của trẻ hay không. Nếu không có kiểm tra IQ - hoặc một thước đo trí thông minh khác - trẻ em và người lớn cần hỗ trợ thêm có thể không được xác định một cách hiệu quả. Mọi người cũng sử dụng kết quả kiểm tra IQ để tìm kiếm lợi ích khuyết tật từ Cơ quan An sinh Xã hội.

    Trong khi các bài kiểm tra IQ đôi khi được sử dụng làm lập luận ủng hộ các mục đích quỷ quyệt, chẳng hạn như phong trào ưu sinh, là khoa học cải thiện dân số loài người bằng cách chăn nuôi có kiểm soát để tăng các đặc điểm di truyền mong muốn. Tuy nhiên, giá trị của bài kiểm tra này rất quan trọng để giúp những người có nhu cầu.34

    Kiểm tra trí thông minh và những người đã tạo ra chúng

    Alfred Binet & Théodore Simon - Stanford- Bài kiểm tra trí thông minh Binet

    Từ năm 1904- 1905, nhà tâm lý học người Pháp Alfred Binet (1857—1914) và đồng nghiệp Théodore Simon (1872—1961) bắt đầu làm việc thay mặt chính phủ Pháp để phát triển một biện pháp xác định những trẻ em sẽ không thành công với chương trình học thông thường. Mục đích là giúp giáo viên giáo dục tốt hơn những học sinh này (Aiken, 1994).

    Binet và Simon đã phát triển cái mà hầu hết các nhà tâm lý học ngày nay coi là bài kiểm tra trí thông minh đầu tiên, bao gồm nhiều câu hỏi bao gồm khả năng đặt tên các đối tượng, xác định từ, vẽ tranh, hoàn thành câu, so sánh các mục và xây dựng câu. Binet và Simon (Binet, Simon, & Town, 1915; Siegler, 1992) tin rằng những câu hỏi mà họ hỏi bọn trẻ đều đánh giá các khả năng cơ bản để hiểu, suy luận và đưa ra phán đoán.

    Bức ảnh đen trắng của một người đàn ông có râu trong bộ đồ (trái) và phác thảo các cấu hình đầu khác nhau, cả nam và nữ (phải).
    Hình\(\PageIndex{1}\): Alfred Binet (b) Trang này là từ phiên bản năm 1908 của Thang đo trí thông minh Binet-Simon. Trẻ em được kiểm tra được hỏi khuôn mặt nào, của mỗi cặp, đẹp hơn. (Hình ảnh nằm trong phạm vi công cộng)

    Ngay sau khi Binet và Simon giới thiệu bài kiểm tra của họ, nhà tâm lý học người Mỹ Lewis Terman tại Đại học Stanford (1877—1956) đã phát triển một phiên bản Mỹ của bài kiểm tra Binet được gọi là Bài kiểm tra trí thông minh Stanford- Binet. Stanford-Binet là thước đo trí thông minh chung được tạo thành từ nhiều nhiệm vụ khác nhau bao gồm từ vựng, trí nhớ cho hình ảnh, đặt tên cho các đối tượng quen thuộc, lặp lại câu và tuân theo các lệnh.

    David Wechsler- Thang đo trí thông minh Wechsler-Bellevue

    Năm 1939, David Wechsler, một nhà tâm lý học đã dành một phần sự nghiệp của mình để làm việc với các cựu chiến binh Thế chiến thứ nhất, đã phát triển một bài kiểm tra IQ mới ở Hoa Kỳ. Wechsler đã kết hợp một số bài kiểm tra phụ từ các bài kiểm tra trí thông minh khác được sử dụng từ năm 1880 đến Thế chiến I. Những bài kiểm tra phụ này khai thác nhiều kỹ năng bằng lời nói và phi ngôn ngữ, bởi vì Wechsler tin rằng trí thông minh bao gồm “năng lực toàn cầu của một người để hành động có mục đích, suy nghĩ hợp lý và đối phó hiệu quả với môi trường của anh ta” (Wechsler, 1958, trang 7). Ông đặt tên cho bài kiểm tra là Thang đo trí thông minh Wechsler-Bellevue (Wechsler, 1981). Sự kết hợp của các bài kiểm tra phụ này đã trở thành một trong những bài kiểm tra trí thông minh được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử tâm lý học.

    Một người đeo kính và tóc ngắn cầm ống và nhìn vào máy ảnh, mặc áo len tối màu bên ngoài áo sơ mi có cổ trắng.
    Hình\(\PageIndex{2}\): David Wechsler (Ảnh của Comet Photo AG (Zürich) được cấp phép theo CCBY-SA 4.0)

    Ngày nay, có ba bài kiểm tra trí thông minh được ghi nhận cho Wechsler, Wechsler Adult Intelligence Scale-phiên bản thứ tư (WAIS-IV), Thang đo trí thông minh Wechsler cho trẻ em (WISC-V), và Thang đo trí tuệ tiểu học và mầm non Wechsler — Sửa đổi (WPPSI-III) (Wechsler, 2002). Các bài kiểm tra này được sử dụng rộng rãi trong các trường học và cộng đồng trên khắp Hoa Kỳ, và chúng được định mức và tiêu chuẩn hóa định kỳ như một phương tiện hiệu chuẩn lại.

    Sự thiên vị của bài kiểm tra IQ

    Các bài kiểm tra trí thông minh và định nghĩa tâm lý về trí thông minh đã bị chỉ trích nặng nề kể từ những năm 1970 vì thiên vị ủng hộ những người trả lời Anh-Mỹ, trung lưu và là công cụ không đầy đủ để đo lường các loại trí thông minh hoặc tài năng phi học thuật. Trí thông minh thay đổi theo kinh nghiệm, và chỉ số hoặc điểm số thông minh không phản ánh khả năng thay đổi đó. Những gì được coi là thông minh cũng khác nhau về mặt văn hóa và hầu hết các bài kiểm tra trí thông minh không tính đến sự thay đổi này. Ví dụ, ở phương Tây, thông minh có liên quan đến việc nhanh nhẹn. Một người trả lời câu hỏi nhanh nhất được coi là thông minh nhất, nhưng trong một số nền văn hóa, thông minh có liên quan đến việc xem xét một ý tưởng kỹ lưỡng trước khi đưa ra câu trả lời. Một câu trả lời được suy nghĩ kỹ lưỡng, chiêm nghiệm là câu trả lời tốt nhất.38

    Một phổ của sự phát triển trí tuệ

    Kết quả của các nghiên cứu đánh giá phép đo trí thông minh cho thấy chỉ số IQ được phân phối trong dân số dưới dạng Phân phối chuẩn (hoặc đường cong hình chuông), là mô hình điểm số thường được quan sát thấy trong một biến tập hợp xung quanh mức trung bình của nó. Trong một phân phối chuẩn, phần lớn điểm số rơi vào giữa, với ít điểm hơn rơi ở các cực trị. Sự phân bố thông minh bình thường cho thấy rằng trong các bài kiểm tra IQ, cũng như trên hầu hết các thước đo khác, phần lớn mọi người tập trung xung quanh mức trung bình (trong trường hợp này, trong đó IQ = 100), và ít hơn là rất thông minh hoặc rất buồn tẻ (xem bên dưới).

    Biểu đồ đường cong hình chuông hiển thị điểm IQ trên trục x và tần số trên trục y, với hầu hết các giá trị tập trung vào khoảng 100 và giảm dần ở cả hai đầu.
    Hình\(\PageIndex{3}\): Phần lớn mọi người có điểm IQ từ 85 đến 115. (Hình ảnh của CNX Psychology được cấp phép theo CCBY 4.0)

    Phân phối điểm IQ trong dân số chung

    Điều này có nghĩa là khoảng 2% số người đạt điểm trên chỉ số IQ 130, thường được coi là ngưỡng cho năng khiếu và có cùng tỷ lệ phần trăm điểm dưới chỉ số IQ 70, thường được coi là ngưỡng của khuyết tật trí tuệ.

    Khuyết tật trí tuệ

    Một đầu của sự phân bố điểm thông minh được xác định bởi những người có chỉ số IQ rất thấp. Khuyết tật trí tuệ (hoặc rối loạn phát triển trí tuệ) được đánh giá dựa trên năng lực nhận thức (IQ) và chức năng thích ứng. Mức độ nghiêm trọng của khuyết tật dựa trên chức năng thích ứng, hoặc người đó xử lý tốt các công việc cuộc sống hàng ngày như thế nào. Khoảng 1% dân số Hoa Kỳ, hầu hết là nam giới, đáp ứng các tiêu chí về rối loạn phát triển trí tuệ, nhưng một số trẻ em được chẩn đoán này mất phân loại khi chúng già đi và học cách hoạt động tốt hơn trong xã hội. Một lỗ hổng đặc biệt của những người có chỉ số IQ thấp là họ có thể bị người khác lợi dụng và đây là một khía cạnh quan trọng trong định nghĩa về rối loạn phát triển trí tuệ (Greenspan, Loughlin, & amp Black, 2001).

    Một ví dụ về rối loạn phát triển trí tuệ là hội chứng Down, một rối loạn nhiễm sắc thể gây ra bởi sự hiện diện của tất cả hoặc một phần của nhiễm sắc thể thứ 21 thừa. Tỷ lệ mắc hội chứng Down được ước tính khoảng 1 trên 700 ca sinh và tỷ lệ hiện mắc tăng lên khi tuổi của người mẹ tăng lên (CDC, 2014a). Những người mắc hội chứng Down thường biểu hiện một mô hình đặc biệt của các đặc điểm thể chất, bao gồm mũi phẳng, mắt xếch lên trên, lưỡi nhô ra và cổ ngắn.

    Một cậu bé với mái tóc vàng và nụ cười tươi đứng trước bức tường gạch sáng màu, mặc áo phông màu nâu có chữ trắng trên tay áo và ngực.
    Hình\(\PageIndex{4}\): Hội chứng Down là do sự hiện diện của tất cả hoặc một phần của nhiễm sắc thể thứ 21 thừa. (Hình ảnh của Vanellus Foto được cấp phép theo CC-BY-SA 3.0)

    May mắn thay, thái độ xã hội đối với những người khuyết tật trí tuệ đã thay đổi trong những thập kỷ qua. Chúng tôi không còn sử dụng các thuật ngữ như “chậm phát triển”, “kẻ ngốc”, “kẻ ngốc” hoặc “ngu ngốc” để mô tả những người có sự khác biệt về trí tuệ, mặc dù đây là những thuật ngữ tâm lý chính thức được sử dụng để mô tả mức độ của những gì được gọi là chậm phát triển trí tuệ trong quá khứ. Các luật như Đạo luật Người khuyết tật Hoa Kỳ (ADA) đã quy định việc phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật về thể chất và tinh thần là bất hợp pháp.

    Sự phân bố bình thường của điểm IQ trong dân số nói chung cho thấy hầu hết mọi người có trí thông minh trung bình, trong khi rất ít người có trí thông minh cực kỳ cao hoặc cực thấp.

    Năng khiếu

    năng khiếu đề cập đến những đứa trẻ có chỉ số IQ từ 130 trở lên (Lally & Valentine-French, 2015). Có chỉ số IQ cực cao rõ ràng là ít vấn đề hơn là có chỉ số IQ cực thấp nhưng cũng có thể có những thách thức đối với việc đặc biệt thông minh. Người ta thường cho rằng những đứa trẻ đi học được dán nhãn là “có năng khiếu” có thể gặp vấn đề về điều chỉnh khiến chúng khó tạo và duy trì các mối quan hệ xã hội hơn.

    Một người mặc áo len màu xám viết bằng bút chì trên giấy trắng tại bàn gỗ, với một thư mục màu tím gần đó.
    Hình\(\PageIndex{5}\): Những đứa trẻ đạt điểm trong bài kiểm tra trí thông minh cho thấy chỉ số IQ từ 130 trở lên được dán nhãn là có năng khiếu. (Hình ảnh của Ben Mullins trên Un splash)

    Như bạn có thể mong đợi dựa trên cuộc thảo luận của chúng tôi về trí thông minh, cũng có nhiều loại và lĩnh vực khác nhau về trí thông minh và năng khiếu. Một số trẻ em đặc biệt giỏi toán hoặc khoa học, một số học sửa chữa ô tô hoặc nghề mộc, một số học âm nhạc hoặc nghệ thuật, một số về thể thao hoặc lãnh đạo, v.v. Có một cuộc tranh luận sôi nổi giữa các học giả về việc liệu có phù hợp hay có lợi khi dán nhãn một số trẻ em là “có năng khiếu và tài năng” ở trường và cung cấp cho chúng các lớp học đặc biệt tăng tốc và các chương trình khác không có sẵn cho tất cả mọi người. Mặc dù làm như vậy có thể giúp ích cho những đứa trẻ có năng khiếu (Colangelo & amp Assouline, 2009), nhưng nó cũng có thể cách ly chúng với các bạn cùng lứa và khiến những điều khoản đó không có sẵn cho những người không được phân loại là “có năng khiếu”. Việc kiểm tra IQ cao hoặc khuyết tật cần được xem xét một cách nghiêm túc để những gì tốt đẹp mà các bài kiểm tra này được tạo ra không được sử dụng cho các mục đích không mong muốn.43

    Làm thế nào để chúng ta biết rất nhiều về những gì trẻ em học ở trường? Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét các loại bài kiểm tra khác nhau và những gì các trường đang kiểm tra.

    Kiểm tra trong trường học

    Kết quả học tập của trẻ em thường được đo bằng việc sử dụng các bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa. Những bài kiểm tra này bao gồm, nhưng không giới hạn ở các bài kiểm tra Thành tích và Năng khiếu.

    Bốn học sinh ngồi trên những chiếc ghế màu xanh lá cây ở bàn làm việc, mỗi người làm việc trên một máy tính xách tay trong một lớp học với trang trí đầy màu sắc và bằng gỗ có thể nhìn thấy trong nền.
    Hình\(\PageIndex{6}\): Các bài kiểm tra tiêu chuẩn được sử dụng để đo lường kết quả học tập. (Hình ảnh của Marine Corps Base Hawaii thuộc phạm vi công cộng)

    Các bài kiểm tra thành tích được sử dụng để đo lường những gì một đứa trẻ đã học. Các bài kiểm tra thành tích thường được sử dụng như là thước đo hiệu quả giảng dạy trong môi trường trường học và như một phương pháp để làm cho các trường nhận tiền thuế (chẳng hạn như trường công lập, trường bán công và trường tư nhận chứng từ) chịu trách nhiệm trước chính phủ về hiệu suất của họ.

    Các bài kiểm tra năng khiếu được thiết kế để đo lường khả năng học hỏi của học sinh hoặc để xác định xem một người có tiềm năng trong một chương trình cụ thể hay không. Chúng thường được sử dụng khi bắt đầu khóa học hoặc là một phần của yêu cầu đầu vào đại học. Scholastic Aptitude Test (SAT) và Preliminary Scholastic Aptitude Test (PSAT) có lẽ là những bài kiểm tra năng khiếu quen thuộc nhất đối với học sinh từ lớp 6 trở lên. Học các kỹ năng làm bài kiểm tra và chuẩn bị cho SAT đã trở thành một phần của khóa đào tạo mà một số học sinh trong các lớp này nhận được như một phần của quá trình chuẩn bị trước đại học của họ. Các bài kiểm tra năng khiếu khác bao gồm MCAT (Medical College Admission Test), LSAT (Law School Admission Test) và GRE (Graduate Record Examination). Kiểm tra trí thông minh cũng là một hình thức kiểm tra năng khiếu, được thiết kế để đo lường khả năng học tập của một người.

    Điều gì đã xảy ra với đứa trẻ không bị bỏ lại phía sau?

    Năm 2001, Tổng thống Bush đã ký Luật Công 107-110 có hiệu lực, được biết đến nhiều hơn với tên Đạo luật Không Trẻ em bị bỏ lại phía sau quy định các trường học quản lý các bài kiểm tra thành tích cho học sinh và công bố những kết quả đó để phụ huynh có ý tưởng về thành tích của con cái họ. Ngoài ra, chính phủ sẽ có thông tin về khoảng cách trong thành tích giáo dục giữa trẻ em từ các tầng lớp xã hội, chủng tộc và dân tộc khác nhau.

    Các trường có khoảng cách đáng kể về các mức hiệu suất này được bắt buộc phải làm việc để thu hẹp những khoảng cách này. Các nhà giáo dục chỉ trích chính sách này vì tập trung quá nhiều vào kiểm tra là dấu hiệu duy nhất cho thấy thành tích của học sinh. Mục tiêu mục tiêu được coi là không thực tế và được đặt ra bởi chính phủ liên bang hơn là các tiểu bang riêng lẻ. Bởi vì những yêu cầu này ngày càng trở nên không thể thực hiện được đối với các trường học, những thay đổi đối với luật đã được yêu cầu.

    Tổng thống George W. Bush ký Đạo luật No Child Left Behind tại bàn làm việc, xung quanh là trẻ em, quan chức và một lá cờ Mỹ ở phía sau.
    Đạo \(\PageIndex{7}\) luật No Child Left Behind được ký kết có hiệu lực vào năm 2001. (Hình ảnh thuộc phạm vi công cộng)
    Tổng thống Obama ngồi ở bàn làm việc, mỉm cười, xung quanh là một nhóm người đa dạng vỗ tay khi ông chuẩn bị ký một văn bản trong một khung cảnh chính thức.
    Hình\(\PageIndex{8}\): Đạo luật Mọi học sinh thành công đã được ký kết có hiệu lực vào năm 2015. (Hình ảnh thuộc phạm vi công cộng)

    Vào ngày 12 tháng 12 năm 2015, Tổng thống Obama đã ký thành luật Đạo luật E very Student Succeeds Act (ESSA). Luật này được nhà nước định hướng và tập trung vào việc mở rộng các cơ hội giáo dục và cải thiện kết quả học sinh, bao gồm trong các lĩnh vực tốt nghiệp trung học, tỷ lệ bỏ học và đi học đại học.48


    This page titled 11.6: Kiểm tra trí thông minh - Cái gì, Tại sao và Ai is shared under a CC BY 4.0 license and was authored, remixed, and/or curated by Paris, Ricardo, Raymond, & Johnson (College of the Canyons) via source content that was edited to the style and standards of the LibreTexts platform.