Skip to main content
Social Sci LibreTexts

12.1: Các lý thuyết về cảm xúc xã hội về sự phát triển

  • Page ID
    245854
  • \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\) \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    ( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\) \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\) \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\) \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\)

    \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\)

    \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\)

    \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\) \( \newcommand{\AA}{\unicode[.8,0]{x212B}}\)

    \( \newcommand{\vectorA}[1]{\vec{#1}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorAt}[1]{\vec{\text{#1}}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorB}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vectorC}[1]{\textbf{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorD}[1]{\overrightarrow{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorDt}[1]{\overrightarrow{\text{#1}}} \)

    \( \newcommand{\vectE}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash{\mathbf {#1}}}} \)

    \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \(\newcommand{\avec}{\mathbf a}\) \(\newcommand{\bvec}{\mathbf b}\) \(\newcommand{\cvec}{\mathbf c}\) \(\newcommand{\dvec}{\mathbf d}\) \(\newcommand{\dtil}{\widetilde{\mathbf d}}\) \(\newcommand{\evec}{\mathbf e}\) \(\newcommand{\fvec}{\mathbf f}\) \(\newcommand{\nvec}{\mathbf n}\) \(\newcommand{\pvec}{\mathbf p}\) \(\newcommand{\qvec}{\mathbf q}\) \(\newcommand{\svec}{\mathbf s}\) \(\newcommand{\tvec}{\mathbf t}\) \(\newcommand{\uvec}{\mathbf u}\) \(\newcommand{\vvec}{\mathbf v}\) \(\newcommand{\wvec}{\mathbf w}\) \(\newcommand{\xvec}{\mathbf x}\) \(\newcommand{\yvec}{\mathbf y}\) \(\newcommand{\zvec}{\mathbf z}\) \(\newcommand{\rvec}{\mathbf r}\) \(\newcommand{\mvec}{\mathbf m}\) \(\newcommand{\zerovec}{\mathbf 0}\) \(\newcommand{\onevec}{\mathbf 1}\) \(\newcommand{\real}{\mathbb R}\) \(\newcommand{\twovec}[2]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\ctwovec}[2]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\threevec}[3]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cthreevec}[3]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fourvec}[4]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfourvec}[4]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fivevec}[5]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfivevec}[5]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\mattwo}[4]{\left[\begin{array}{rr}#1 \amp #2 \\ #3 \amp #4 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\laspan}[1]{\text{Span}\{#1\}}\) \(\newcommand{\bcal}{\cal B}\) \(\newcommand{\ccal}{\cal C}\) \(\newcommand{\scal}{\cal S}\) \(\newcommand{\wcal}{\cal W}\) \(\newcommand{\ecal}{\cal E}\) \(\newcommand{\coords}[2]{\left\{#1\right\}_{#2}}\) \(\newcommand{\gray}[1]{\color{gray}{#1}}\) \(\newcommand{\lgray}[1]{\color{lightgray}{#1}}\) \(\newcommand{\rank}{\operatorname{rank}}\) \(\newcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\col}{\text{Col}}\) \(\renewcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\nul}{\text{Nul}}\) \(\newcommand{\var}{\text{Var}}\) \(\newcommand{\corr}{\text{corr}}\) \(\newcommand{\len}[1]{\left|#1\right|}\) \(\newcommand{\bbar}{\overline{\bvec}}\) \(\newcommand{\bhat}{\widehat{\bvec}}\) \(\newcommand{\bperp}{\bvec^\perp}\) \(\newcommand{\xhat}{\widehat{\xvec}}\) \(\newcommand{\vhat}{\widehat{\vvec}}\) \(\newcommand{\uhat}{\widehat{\uvec}}\) \(\newcommand{\what}{\widehat{\wvec}}\) \(\newcommand{\Sighat}{\widehat{\Sigma}}\) \(\newcommand{\lt}{<}\) \(\newcommand{\gt}{>}\) \(\newcommand{\amp}{&}\) \(\definecolor{fillinmathshade}{gray}{0.9}\)

    Erik Erikson- Công nghiệp vs.

    Erik Erikson đề xuất rằng chúng ta được thúc đẩy bởi nhu cầu đạt được năng lực trong một số lĩnh vực nhất định của cuộc sống. Như chúng ta đã học trong các chương trước, lý thuyết tâm lý xã hội của Erikson có tám giai đoạn phát triển trong suốt cuộc đời, từ giai đoạn sơ sinh đến cuối tuổi trưởng thành. Ở mỗi giai đoạn, có một xung đột, hoặc nhiệm vụ, mà chúng ta cần giải quyết. Hoàn thành thành công mỗi nhiệm vụ phát triển dẫn đến ý thức về năng lực và tính cách lành mạnh. Không thành thạo các nhiệm vụ này dẫn đến cảm giác không thỏa đáng.

    Trong giai đoạn tiểu học (6-12 tuổi), trẻ em phải đối mặt với nhiệm vụ của Công nghiệp so với Tự ti. Trẻ em bắt đầu so sánh bản thân với các bạn cùng lứa để xem chúng đo lường như thế nào.

    Một cậu bé nhận được giải thưởng và giấy chứng nhận từ một người đàn ông lớn tuổi khi đứng với một người phụ nữ tươi cười và một người đàn ông khác.
    Hình\(\PageIndex{1}\): Giải thưởng học thuật mà cậu bé này đang nhận được có thể góp phần vào ý thức về ngành công nghiệp của cậu ấy. (Hình ảnh của Janarthanan kesavan được cấp phép theo CC-BY-SA 4.0)

    Họ hoặc phát triển cảm giác tự hào và thành tích trong bài tập ở trường, thể thao, các hoạt động xã hội và cuộc sống gia đình, hoặc họ cảm thấy thấp kém và không đủ khi họ không đo lường được.

    Theo Erikson, trẻ em ở tuổi trung niên rất bận rộn hoặc cần cù. Họ không ngừng làm, lập kế hoạch, chơi, cùng bạn bè, đạt được. Đây là khoảng thời gian rất năng động và là thời điểm họ có được cảm giác về cách họ đo lường khi so sánh với bạn bè. Erikson tin rằng nếu những đứa trẻ cần cù này có thể thành công trong nỗ lực của chúng, chúng sẽ có được cảm giác tự tin cho những thách thức trong tương lai. Nếu không, cảm giác tự ti có thể đặc biệt ám ảnh trong thời thơ ấu giữa.

    Sigmund Freud - Lý thuyết phân tâm học

    Nhà phân tâm học vĩ đại Sigmund Freud (1856—1939) tập trung vào các lực lượng sinh học, vô thức mà ông cảm thấy hình thành tính cách cá nhân. Freud (1933) nghĩ rằng tính cách bao gồm ba phần: id, bản ngã và siêu nhân. Id là phần ích kỷ của tính cách và bao gồm các bản năng sinh học mà tất cả các em bé đều có, bao gồm cả nhu cầu về thức ăn và nói chung là nhu cầu được thỏa mãn ngay lập tức. Khi trẻ lớn hơn, chúng học được rằng không phải tất cả các nhu cầu của chúng đều có thể được thỏa mãn ngay lập tức và do đó phát triển bản ngã, hoặc phần lý trí của tính cách. Khi trẻ lớn hơn, chúng nội tâm hóa các chuẩn mực và giá trị của xã hội và do đó bắt đầu phát triển siêu nhân của chúng, đại diện cho lương tâm của xã hội. Nếu một đứa trẻ không phát triển bình thường và siêu nhân không trở nên đủ mạnh mẽ, cá nhân đó có nhiều nguy cơ bị thúc đẩy bởi id để thực hiện hành vi chống đối xã hội.

    Một đứa trẻ mặc áo khoác đỏ và đôi ủng đi một mình trên bãi biển đầy cát, để lại dấu chân phía sau, với nền mờ của cồn cát.
    Hình\(\PageIndex{2}\): Sự phát triển của siêu nhân giúp trẻ vượt qua mong muốn vô thức của chúng để cư xử chống đối xã hội. (Ảnh: Annie Spratt trên Unsplash)

    Các giai đoạn phát triển đạo đức của Lawrence Kohlberg

    Kohlberg (1963) được xây dựng dựa trên công trình của Piaget và quan tâm đến việc tìm hiểu lý luận đạo đức của chúng ta thay đổi như thế nào khi chúng ta già đi. Ông muốn tìm hiểu cách mọi người quyết định điều gì đúng và điều gì sai. Giống như Piaget tin rằng sự phát triển nhận thức của trẻ em tuân theo các mô hình cụ thể, Kohlberg (1984) lập luận rằng chúng ta học các giá trị đạo đức của mình thông qua suy nghĩ và lý luận tích cực, và sự phát triển đạo đức tuân theo một loạt các giai đoạn. Sáu giai đoạn của Kohlberg thường được tổ chức thành ba cấp độ lý do đạo đức. Để nghiên cứu sự phát triển đạo đức, Kohlberg đã xem xét cách trẻ em (và người lớn) phản ứng với những tình huống khó xử về đạo đức. Một trong những tình huống khó xử về đạo đức được biết đến nhiều nhất của Kohlberg là tình thế tiến thoái lưỡng nan của Heinz:

    Ở châu Âu, một người phụ nữ gần chết vì một loại ung thư đặc biệt. Có một loại thuốc mà các bác sĩ nghĩ có thể cứu cô. Đó là một dạng radium mà một nhà ma túy trong cùng một thị trấn gần đây đã phát hiện ra. Loại thuốc này đắt tiền để sản xuất nhưng nhà ma túy đã tính phí gấp mười lần số thuốc mà anh ta phải trả để tạo ra. Anh ta đã trả 200 đô la cho radium và tính phí 2.000 đô la cho một liều nhỏ thuốc. Chồng của người phụ nữ bị bệnh, Heinz, đã đến gặp mọi người mà anh ta biết để vay tiền nhưng anh ta chỉ có thể kiếm được khoảng 1.000 đô la, bằng một nửa số tiền thuốc có giá. Anh ta nói với bác sĩ ma túy rằng vợ anh ta sắp chết và yêu cầu anh ta bán nó rẻ hơn hoặc để anh ta trả tiền sau. Nhưng người nghiện ma túy nói: “Không, tôi đã phát hiện ra loại thuốc này và tôi sẽ kiếm tiền từ nó.” Heinz đã tuyệt vọng và đột nhập vào cửa hàng của người đàn ông để ăn cắp thuốc cho vợ. Người chồng có nên làm điều đó không? (Kohlberg, 1969, trang 379) 6

    Cấp một - Đạo đức tiền quy ước

    Trong giai đoạn một, lý luận đạo đức dựa trên các khái niệm về hình phạt. Đứa trẻ tin rằng nếu hậu quả của một hành động là hình phạt, thì hành động đó đã sai. Trong giai đoạn thứ hai, đứa trẻ dựa trên suy nghĩ của mình về lợi ích cá nhân và phần thưởng (“Bạn gãi lưng tôi, tôi sẽ gãi lưng của bạn”). Các đối tượng trẻ nhất dường như trả lời dựa trên những gì sẽ xảy ra với người đàn ông do hậu quả của hành động. Ví dụ, họ có thể nói rằng người đàn ông không nên đột nhập vào hiệu thuốc vì dược sĩ có thể tìm thấy anh ta và đánh anh ta. Hoặc họ có thể nói rằng người đàn ông nên đột nhập và ăn cắp thuốc và vợ anh ta sẽ trao cho anh ta một nụ hôn lớn. Đúng hay sai, cả hai quyết định đều dựa trên những gì sẽ xảy ra về thể chất với người đàn ông do hành động đó. Đây là một cách tiếp cận tự cho mình là trung tâm để ra quyết định đạo đức. Ông gọi đây là sự hiểu biết hời hợt nhất về đạo đức tiền quy ước đúng và sai. Đạo đức tiền quy ước tập trung vào lợi ích cá nhân. Trừng phạt được tránh và phần thưởng được tìm kiếm. Người lớn cũng có thể rơi vào những giai đoạn này, đặc biệt là khi họ chịu áp lực.

    Cấp độ hai - Đạo đức thông thường

    Những người được kiểm tra xem ai dựa trên câu trả lời của họ dựa trên những gì người khác sẽ nghĩ về người đàn ông do hành động của anh ta được xếp vào Cấp độ Hai. Ví dụ, họ có thể nói rằng anh ta nên đột nhập vào cửa hàng, sau đó mọi người sẽ nghĩ anh ta là một người chồng tốt, hoặc anh ta không nên vì điều đó vi phạm pháp luật. Trong cả hai trường hợp, đúng và sai được xác định bởi những gì người khác nghĩ. Trong giai đoạn ba, người đó muốn làm hài lòng người khác. Ở giai đoạn bốn, người đó thừa nhận tầm quan trọng của các chuẩn mực xã hội hoặc luật pháp và muốn trở thành một thành viên tốt của nhóm hoặc xã hội. Một quyết định tốt là một quyết định có được sự chấp thuận của người khác hoặc một quyết định tuân thủ luật pháp. Điều này ông gọi là đạo đức thông thường, mọi người quan tâm đến ảnh hưởng của hành động của họ đối với người khác. Một số trẻ lớn hơn, thanh thiếu niên và người lớn sử dụng lý do này.

    Cấp độ Ba, đạo đức hậu thông thường, không được bao gồm vì nó tập trung vào tuổi thiếu niên và tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, nó nằm trong bảng dưới đây nếu bạn muốn có cái nhìn tổng quan về Cấp độ Ba - Giai đoạn 5 và 6.

    Đạo đức tiền quy ước (trẻ nhỏ)

    Bảng\(\PageIndex{1}\): Mức độ lý luận đạo đức của Lawrence Kohlberg
    Giai đoạn Mô tả
    Giai đoạn 1

    Tập trung vào lợi ích cá nhân và tránh bị trừng phạt. Người đàn ông không nên ăn cắp ma túy, vì anh ta có thể bị bắt và vào tù.

    Giai đoạn 2 Phần thưởng được tìm kiếm. Một người ở cấp độ này sẽ lập luận rằng người đàn ông nên ăn cắp thuốc vì anh ta không muốn mất người vợ chăm sóc anh ta.

    Đạo đức thông thường (trẻ lớn hơn, thanh thiếu niên, hầu hết người lớn)

    Giai đoạn Mô tả
    Giai đoạn 3 Tập trung vào cách kết quả tình huống tác động đến người khác và muốn làm hài lòng và được chấp nhận. Người đàn ông nên ăn cắp thuốc vì đó là những gì những người chồng tốt làm.
    Giai đoạn 4

    Mọi người đưa ra quyết định dựa trên luật pháp hoặc các quy tắc chính thức. Người đàn ông nên tuân theo luật pháp vì ăn cắp là một tội ác.

    Đạo đức hậu thông thường (hiếm ở thanh thiếu niên, một vài người lớn)

    Giai đoạn Mô tả
    Giai đoạn 5 Các cá nhân sử dụng lý luận trừu tượng để biện minh cho các hành vi. Người đàn ông nên ăn cắp ma túy vì luật pháp có thể bất công và bạn phải xem xét toàn bộ tình huống.
    Giai đoạn 6 Hành vi đạo đức dựa trên các nguyên tắc đạo đức tự chọn. Người đàn ông nên ăn cắp thuốc vì cuộc sống quan trọng hơn tài sản.

    Mặc dù nghiên cứu đã ủng hộ ý tưởng của Kohlberg rằng lý luận đạo đức thay đổi từ việc nhấn mạnh sớm vào hình phạt và các quy tắc và quy định xã hội sang nhấn mạnh vào các nguyên tắc đạo đức chung hơn, như với cách tiếp cận của Piaget, mô hình giai đoạn của Kohlberg có lẽ quá đơn giản. Đầu tiên, mọi người có thể sử dụng mức độ lý luận cao hơn cho một số loại vấn đề nhưng trở lại cấp độ thấp hơn trong các tình huống làm như vậy phù hợp hơn với mục tiêu hoặc niềm tin của họ (Rest, 1979). Thứ hai, người ta lập luận rằng mô hình giai đoạn đặc biệt thích hợp với các mẫu phương Tây, chứ không phải phương Tây, trong đó lòng trung thành với các chuẩn mực xã hội, chẳng hạn như tôn trọng quyền lực, có thể đặc biệt quan trọng (Haidt, 2001). Ngoài ra, thường có rất ít mối tương quan giữa cách chúng ta ghi điểm trên các giai đoạn đạo đức và cách chúng ta cư xử trong cuộc sống thực. Có lẽ phê bình quan trọng nhất đối với lý thuyết của Kohlberg là nó có thể mô tả sự phát triển đạo đức của nam giới tốt hơn so với mô tả của phụ nữ (Jaffee & amp Hyde, 2000).


    This page titled 12.1: Các lý thuyết về cảm xúc xã hội về sự phát triển is shared under a CC BY 4.0 license and was authored, remixed, and/or curated by Paris, Ricardo, Raymond, & Johnson (College of the Canyons) via source content that was edited to the style and standards of the LibreTexts platform.