Skip to main content
Social Sci LibreTexts

15.4: Phát triển bản dạng giới

  • Page ID
    245979
  • \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\) \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    ( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\) \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\) \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\) \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\id}{\mathrm{id}}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\)

    \( \newcommand{\kernel}{\mathrm{null}\,}\)

    \( \newcommand{\range}{\mathrm{range}\,}\)

    \( \newcommand{\RealPart}{\mathrm{Re}}\)

    \( \newcommand{\ImaginaryPart}{\mathrm{Im}}\)

    \( \newcommand{\Argument}{\mathrm{Arg}}\)

    \( \newcommand{\norm}[1]{\| #1 \|}\)

    \( \newcommand{\inner}[2]{\langle #1, #2 \rangle}\)

    \( \newcommand{\Span}{\mathrm{span}}\) \( \newcommand{\AA}{\unicode[.8,0]{x212B}}\)

    \( \newcommand{\vectorA}[1]{\vec{#1}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorAt}[1]{\vec{\text{#1}}}      % arrow\)

    \( \newcommand{\vectorB}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vectorC}[1]{\textbf{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorD}[1]{\overrightarrow{#1}} \)

    \( \newcommand{\vectorDt}[1]{\overrightarrow{\text{#1}}} \)

    \( \newcommand{\vectE}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash{\mathbf {#1}}}} \)

    \( \newcommand{\vecs}[1]{\overset { \scriptstyle \rightharpoonup} {\mathbf{#1}} } \)

    \( \newcommand{\vecd}[1]{\overset{-\!-\!\rightharpoonup}{\vphantom{a}\smash {#1}}} \)

    \(\newcommand{\avec}{\mathbf a}\) \(\newcommand{\bvec}{\mathbf b}\) \(\newcommand{\cvec}{\mathbf c}\) \(\newcommand{\dvec}{\mathbf d}\) \(\newcommand{\dtil}{\widetilde{\mathbf d}}\) \(\newcommand{\evec}{\mathbf e}\) \(\newcommand{\fvec}{\mathbf f}\) \(\newcommand{\nvec}{\mathbf n}\) \(\newcommand{\pvec}{\mathbf p}\) \(\newcommand{\qvec}{\mathbf q}\) \(\newcommand{\svec}{\mathbf s}\) \(\newcommand{\tvec}{\mathbf t}\) \(\newcommand{\uvec}{\mathbf u}\) \(\newcommand{\vvec}{\mathbf v}\) \(\newcommand{\wvec}{\mathbf w}\) \(\newcommand{\xvec}{\mathbf x}\) \(\newcommand{\yvec}{\mathbf y}\) \(\newcommand{\zvec}{\mathbf z}\) \(\newcommand{\rvec}{\mathbf r}\) \(\newcommand{\mvec}{\mathbf m}\) \(\newcommand{\zerovec}{\mathbf 0}\) \(\newcommand{\onevec}{\mathbf 1}\) \(\newcommand{\real}{\mathbb R}\) \(\newcommand{\twovec}[2]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\ctwovec}[2]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\threevec}[3]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cthreevec}[3]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fourvec}[4]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfourvec}[4]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\fivevec}[5]{\left[\begin{array}{r}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\cfivevec}[5]{\left[\begin{array}{c}#1 \\ #2 \\ #3 \\ #4 \\ #5 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\mattwo}[4]{\left[\begin{array}{rr}#1 \amp #2 \\ #3 \amp #4 \\ \end{array}\right]}\) \(\newcommand{\laspan}[1]{\text{Span}\{#1\}}\) \(\newcommand{\bcal}{\cal B}\) \(\newcommand{\ccal}{\cal C}\) \(\newcommand{\scal}{\cal S}\) \(\newcommand{\wcal}{\cal W}\) \(\newcommand{\ecal}{\cal E}\) \(\newcommand{\coords}[2]{\left\{#1\right\}_{#2}}\) \(\newcommand{\gray}[1]{\color{gray}{#1}}\) \(\newcommand{\lgray}[1]{\color{lightgray}{#1}}\) \(\newcommand{\rank}{\operatorname{rank}}\) \(\newcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\col}{\text{Col}}\) \(\renewcommand{\row}{\text{Row}}\) \(\newcommand{\nul}{\text{Nul}}\) \(\newcommand{\var}{\text{Var}}\) \(\newcommand{\corr}{\text{corr}}\) \(\newcommand{\len}[1]{\left|#1\right|}\) \(\newcommand{\bbar}{\overline{\bvec}}\) \(\newcommand{\bhat}{\widehat{\bvec}}\) \(\newcommand{\bperp}{\bvec^\perp}\) \(\newcommand{\xhat}{\widehat{\xvec}}\) \(\newcommand{\vhat}{\widehat{\vvec}}\) \(\newcommand{\uhat}{\widehat{\uvec}}\) \(\newcommand{\what}{\widehat{\wvec}}\) \(\newcommand{\Sighat}{\widehat{\Sigma}}\) \(\newcommand{\lt}{<}\) \(\newcommand{\gt}{>}\) \(\newcommand{\amp}{&}\) \(\definecolor{fillinmathshade}{gray}{0.9}\)

    Từ khi sinh ra, trẻ em được chỉ định một giới tính và được xã hội hóa để phù hợp với các vai trò giới nhất định dựa trên giới tính sinh học của chúng. “Giới tính”, đề cập đến sự khác biệt về thể chất hoặc sinh lý giữa nam, nữ và người liên giới tính, bao gồm cả đặc điểm giới tính chính và phụ của họ. Mặt khác, “Giới tính” đề cập đến sự khác biệt xã hội hoặc văn hóa liên quan đến một giới tính nhất định.

    Khi trẻ sơ sinh được sinh ra, chúng được chỉ định một giới tính dựa trên giới tính sinh học của chúng — trẻ sơ sinh nam được chỉ định là bé trai, trẻ sơ sinh nữ được chỉ định là bé gái và trẻ liên giới được sinh ra với các đặc điểm giới tính không phù hợp với các định nghĩa điển hình cho cơ thể nam hoặc nữ, và thường được xếp vào loại giới này hay loại giới tính khác. Các học giả thường coi giới là một cấu trúc xã hội, có nghĩa là nó không tồn tại một cách tự nhiên mà thay vào đó là một khái niệm được tạo ra bởi các chuẩn mực văn hóa và xã hội. Từ khi sinh ra, trẻ em được xã hội hóa để phù hợp với các vai trò giới nhất định dựa trên giới tính sinh học của chúng và giới tính mà chúng được chỉ định.22

    Trải nghiệm chủ quan của một người về giới tính của chính họ và cách nó phát triển, hoặc bản dạng giới, là một chủ đề tranh luận nhiều. Đó là mức độ mà một người xác định với một giới tính cụ thể; đó là ý thức cá nhân và trải nghiệm chủ quan của một người khi là đàn ông, phụ nữ hoặc giới tính khác. Nó thường được hình thành sớm trong cuộc sống và chủ yếu bao gồm việc chấp nhận (hoặc không chấp nhận) tư cách thành viên của một người vào một loại giới tính. Trong hầu hết các xã hội, có sự phân chia cơ bản giữa các thuộc tính giới được gán cho nam và nữ. Tuy nhiên, trong tất cả các xã hội, một số cá nhân không xác định được một số (hoặc tất cả) các khía cạnh của giới tính được gán cho giới tính sinh học của họ.

    Những người xác định giới tính tương ứng với giới tính được chỉ định cho họ khi sinh (ví dụ: họ được chỉ định là nữ khi sinh và tiếp tục xác định là con gái, và sau đó là phụ nữ) được gọi là cisgender. Trong nhiều nền văn hóa phương Tây, những cá nhân xác định với một giới tính khác với giới tính sinh học của họ (ví dụ, họ được chỉ định là nữ khi sinh nhưng cảm thấy bên trong rằng họ là con trai hoặc một giới tính khác với một cô gái) được gọi là chuyển giới. Một số cá nhân chuyển giới, nếu họ có quyền truy cập vào các nguồn lực và chăm sóc y tế, chọn thay đổi cơ thể của họ thông qua các can thiệp y tế như phẫu thuật và liệu pháp nội tiết tố để thể chất của họ phù hợp hơn với bản dạng giới của họ.

    Một người đeo kính râm, thắt nơ màu nâu và một chiếc cặp mỉm cười trong khi cầm đồ uống tại một sự kiện ngoài trời với những người khác ở phía sau.
    Hình\(\PageIndex{1}\): Người này xác định là người đồng tính giới tính. (Hình ảnh của Franziska Neumeister được cấp phép theo CCBY 2.0)

    Các thuật ngữ gần đây như “genderqueer”, “genderfluid”, “gender variant”, “androgynous”, “agender” và “gender nonconforming” được sử dụng bởi những cá nhân không xác định trong hệ nhị phân giới tính là nam hay nữ. Thay vào đó, họ xác định là tồn tại ở đâu đó dọc theo một phổ hoặc liên tục của các giới tính, hoặc hoàn toàn bên ngoài quang phổ, thường theo cách liên tục phát triển.

    Sự liên tục về giới

    Xem giới tính như một sự liên tục cho phép chúng ta nhận thức được sự đa dạng phong phú của giới tính, từ chuyển giới và chuyển giới đến người đồng tính giới và tác nhân. Hầu hết các xã hội phương Tây hoạt động dựa trên ý tưởng rằng giới tính là một hệ nhị phân, rằng về cơ bản chỉ có hai giới tính (nam và nữ) dựa trên hai giới tính (nam và nữ), và mọi người phải phù hợp với nhau. Sự phân đôi xã hội này thực thi sự phù hợp với lý tưởng nam tính và nữ tính trong tất cả các khía cạnh của giới tính và giới tính - bản dạng giới, biểu hiện giới tính và giới tính sinh học.

    Theo những người ủng hộ lý thuyết queer, bản dạng giới không phải là một bản sắc cứng nhắc hay tĩnh mà có thể tiếp tục phát triển và thay đổi theo thời gian. Lý thuyết queer được phát triển để đáp ứng với những hạn chế nhận thức về cách thức mà các danh tính được cho là trở nên hợp nhất hoặc ổn định (ví dụ, đồng tính nam hoặc thẳng) và các nhà lý thuyết đã xây dựng sự kỳ lạ trong nỗ lực chống lại điều này. Bằng cách này, lý thuyết cố gắng duy trì một phê bình hơn là xác định một bản sắc cụ thể. Trong khi “queer” bất chấp một định nghĩa đơn giản, thuật ngữ này thường được sử dụng để truyền đạt một bản sắc không được phát triển cứng nhắc mà thay vào đó là linh hoạt và thay đổi. 24

    Người bánh mì giới tính

    Vào năm 2012, Sam Killerman đã tạo ra Genderbread Person như một đồ họa thông tin để phân tích bản dạng giới, biểu hiện giới tính, giới tính sinh học và xu hướng tình dục. 25 Năm 2018, anh ấy đã cập nhật nó lên phiên bản 2.0 để chính xác và toàn diện hơn. 26

    Sơ đồ của Người làm bánh mì giới minh họa bản dạng giới, biểu hiện giới tính, giới tính sinh học và sự hấp dẫn với các nhãn mã màu và hình bánh gừng tươi cười.
    Hình\(\PageIndex{2}\): Người làm bánh mì giới giải thích bản dạng giới, biểu hiện giới tính, giới tính sinh học và xu hướng tình dục. (Hình ảnh của nó được phát âm là MetroSexual)
    Đại từ giới

    Đại từ là một phần của ngôn ngữ được sử dụng để chỉ ai đó hoặc một cái gì đó mà không sử dụng danh từ riêng. Trong tiếng Anh chuẩn, một số đại từ ngôi thứ ba số ít là “he” và “she”, thường được xem là đại từ dành riêng cho giới tính, đề cập đến một người đàn ông và một người phụ nữ, tương ứng. Đại từ trung tính về giới tính hoặc đại từ bao gồm giới tính là một đại từ không có ý nghĩa về giới tính và có thể được sử dụng cho ai đó thuộc bất kỳ giới tính nào.

    Một số ngôn ngữ chỉ có đại từ trung tính về giới tính, trong khi các ngôn ngữ khác gặp khó khăn trong việc thiết lập bất kỳ đại từ nào không dành riêng cho giới tính. Những người có bản sắc giới tính không nhị phân thường chọn đại từ ngôi thứ ba mới cho mình như một phần của quá trình chuyển đổi của họ. Họ thường chọn đại từ trung tính về giới tính để những người khác không coi họ là nữ hay nam.

    Dưới đây là bảng dựa trên Hướng dẫn về Đại từ Tiện dụng của Liên minh Cầu vồng về Đại từ của Yellowknife:

    Bảng\(\PageIndex{1}\): Hướng dẫn về Đại từ (Rainbow Coalition of Yellowknife. (n.d). Hướng dẫn hữu ích về đại từ [tệp PDF]. Lấy từ http://www.rainbowcoalitionyk.org/resources/)
    Đại từ Ví dụ
    Anh ấy/His/Him (đại từ nam tính) Anh ấy sẽ đến cửa hàng để mua cho mình một chiếc mũ. Tôi đã thấy anh ấy mất chiếc mũ cũ ngày hôm qua.
    She/Her/Her (đại từ nữ tính) Cô ấy sẽ đến cửa hàng để mua cho mình một chiếc mũ. Tôi thấy cô ấy mất chiếc mũ cũ ngày hôm qua.
    They/Th@@ em/Theus (đại từ trung tính giới tính) Họ sẽ đến cửa hàng để mua cho mình một chiếc mũ. Tôi đã thấy họ mất chiếc mũ cũ ngày hôm qua.

    Các yếu tố ảnh hưởng đến bản dạng giới

    Mặc dù sự hình thành bản dạng giới chưa được hiểu hoàn toàn, nhưng nhiều yếu tố đã được cho là ảnh hưởng đến sự phát triển của nó. Các yếu tố sinh học có thể ảnh hưởng đến bản dạng giới bao gồm nồng độ hormone trước và sau sinh và cấu tạo gen. Các yếu tố xã hội bao gồm các ý tưởng liên quan đến vai trò giới được truyền tải bởi gia đình, các nhân vật có thẩm quyền, phương tiện truyền thông đại chúng và những người có ảnh hưởng khác trong cuộc sống của một đứa trẻ. Theo lý thuyết học tập xã hội, trẻ em phát triển bản sắc giới tính của mình thông qua việc quan sát và bắt chước các hành vi liên kết giới tính của người khác; sau đó chúng được “khen thưởng” vì bắt chước hành vi của những người cùng giới và “bị trừng phạt” vì bắt chước các hành vi của giới tính khác. Ví dụ, trẻ em nam thường sẽ được khen thưởng vì bắt chước tình yêu bóng chày của cha chúng nhưng bị trừng phạt hoặc chuyển hướng theo một cách nào đó nếu chúng bắt chước tình yêu búp bê của chị gái chúng. Trẻ em được định hình và nhào nặn bởi những người xung quanh, những người mà chúng cố gắng bắt chước và làm theo.

    Vai trò giới

    Thuật ngữ “vai trò giới” đề cập đến khái niệm của xã hội về cách đàn ông và phụ nữ được kỳ vọng sẽ hành động. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta học cách cư xử từ những người xung quanh. Trong quá trình xã hội hóa này, trẻ em được giới thiệu với một số vai trò nhất định thường liên quan đến giới tính sinh học của chúng. Thuật ngữ “vai trò giới” đề cập đến khái niệm của xã hội về cách đàn ông và phụ nữ được kỳ vọng sẽ hành động và cư xử. Vai trò giới được dựa trên các chuẩn mực, hoặc tiêu chuẩn, được tạo ra bởi xã hội. Trong văn hóa Mỹ, vai trò nam tính theo truyền thống gắn liền với sức mạnh, sự hung hăng và sự thống trị, trong khi vai trò nữ tính theo truyền thống gắn liền với sự thụ động, nuôi dưỡng và phụ thuộc.

    Xã hội hóa giới

    Quá trình xã hội hóa trong đó trẻ em học các vai trò giới này bắt đầu từ khi sinh. Ngày nay, xã hội của chúng ta nhanh chóng trang bị cho trẻ sơ sinh nam màu xanh lam và bé gái màu hồng, thậm chí áp dụng các nhãn giới tính được mã hóa màu này khi em bé còn trong bụng mẹ. Thật thú vị khi lưu ý rằng những liên kết màu sắc với giới tính này không phải lúc nào cũng như ngày nay. Cho đến đầu thế kỷ 20, màu hồng thực sự gắn liền với con trai hơn, trong khi màu xanh lam có liên quan nhiều hơn đến các cô gái - minh họa cách các hiệp hội này thực sự được xây dựng về mặt xã hội.

    Xã hội hóa giới xảy ra thông qua bốn tác nhân chính: gia đình, giáo dục, nhóm đồng đẳng và phương tiện truyền thông đại chúng. Mỗi tác nhân củng cố vai trò giới bằng cách tạo ra và duy trì các kỳ vọng chuẩn mực cho hành vi cụ thể về giới. Phơi nhiễm cũng xảy ra thông qua các tác nhân thứ cấp, chẳng hạn như tôn giáo và nơi làm việc. Việc tiếp xúc nhiều lần với các tác nhân này theo thời gian khiến mọi người có cảm giác sai lầm rằng họ đang hành động tự nhiên dựa trên giới tính của họ hơn là tuân theo vai trò được xây dựng xã hội.

    Định kiến giới, phân biệt giới tính và thực thi vai trò giới

    Thái độ và kỳ vọng xung quanh vai trò giới thường không dựa trên bất kỳ sự khác biệt giới vốn có hoặc tự nhiên nào, mà dựa trên định kiến giới hoặc quan niệm đơn giản hóa quá mức về thái độ, đặc điểm và kiểu hành vi của nam và nữ. Chúng ta tham gia vào định kiến giới khi chúng ta làm những việc như đưa ra giả định rằng một người giữ trẻ tuổi teen là nữ.

    Mặc dù phụ nữ có thể chấp nhận một loạt các đặc điểm nam tính hẹp mà không có hậu quả (chẳng hạn như mặc quần áo nam truyền thống), nam giới hiếm khi có thể mang những đặc điểm nữ tính hơn (chẳng hạn như mặc váy) mà không có nguy cơ bị quấy rối hoặc bạo lực. Mối đe dọa trừng phạt này vì bước ra ngoài các chuẩn mực giới tính đặc biệt đúng đối với những người không xác định là nam hay nữ.

    Sáu cậu bé tuổi teen mỉm cười trong quần bơi cùng nhau tạo dáng ngoài trời gần đường trượt nước vào một ngày nắng, trông phấn khích và tràn đầy năng lượng. Những người khác có thể nhìn thấy trong nền.
    Hình\(\PageIndex{3}\): Các cô gái có thể tạo dáng theo cách này cho một hình ảnh không? Điều này nói gì về định kiến giới? (Hình ảnh trên Pixabay)

    Định kiến giới tạo thành cơ sở của phân biệt giới tính hoặc niềm tin định kiến coi trọng nam giới hơn nữ giới. Các hình thức phân biệt giới tính phổ biến trong xã hội hiện đại bao gồm kỳ vọng về vai trò giới, chẳng hạn như mong đợi phụ nữ là người chăm sóc hộ gia đình. Phân biệt giới tính cũng bao gồm kỳ vọng của mọi người về cách các thành viên của một nhóm giới nên cư xử. Ví dụ, các cô gái và phụ nữ được mong đợi là thân thiện, thụ động và nuôi dưỡng; khi cô ấy cư xử theo cách không thân thiện hoặc quyết đoán, cô ấy có thể không thích hoặc bị coi là hung hăng vì cô ấy đã vi phạm vai trò giới tính (Rudman, 1998). Ngược lại, một cậu bé hoặc một người đàn ông cư xử theo cách không thân thiện hoặc quyết đoán tương tự có thể được coi là mạnh mẽ hoặc thậm chí được tôn trọng trong một số trường hợp.


    This page titled 15.4: Phát triển bản dạng giới is shared under a CC BY 4.0 license and was authored, remixed, and/or curated by Paris, Ricardo, Raymond, & Johnson (College of the Canyons) via source content that was edited to the style and standards of the LibreTexts platform.